Dưới tác động của các chính sách cai trị, bóc lột của chính quyền phong kiến phương Bắc, nền kinh tế - xã hội nước ta có sự chuyển biến như thế nào?
Ai nhanh mình tick
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
mình viết nhầm:câu hai là hùng linh công là người như thế nào
Tham Khao
Mỗi chúng ta sinh ra đều có sứ mệnh của riêng mình. Ta sinh ra là một công chúa được vua cha hết mực yêu thương, dân chúng kính mến. Thế nhưng ta lại không hoàn thành sứ mệnh của mình, đẩy dân chúng và cảnh khốn khổ lầm than, trở thành kẻ tội đồ của cả đất nước. Ta là Mị Châu - con gái vua An Dương Vương. Sai lầm của ta chính là câu chuyện của vua cha, ta và Trọng Thủy.
Kế thừa sự nghiệp dựng nước và giữ nước của 18 vị Hùng vương, cha ta đánh tan năm mươi vạn quân Tần xâm lược; đổi tên nước Văn Lang thành Âu Lạc rồi dời đô tới Phong Khê. Cha nhanh chóng bắt đầu xây thành, nhưng kỳ lạ là ngày xây lên đêm lại đổ xuống, mãi không xong. Ông sai các quan lập đàn để cầu đảo bách thần, xỉn thần linh phù trợ. Ngày mồng bảy tháng ba năm ấy, cha nói mình nhìn thấy một cụ già râu tóc bạc phơ, tay chống cây gậy trúc, thong thả từ phía Đông đỉ tới trước cổng thành, ngửa cổ mà than rằng: “Xây dựng thành này biết bao giờ cho xong được!”. Mừng rỡ, cha rước cụ già vào điện, kính cẩn hỏi nguyên cớ xây thành bị đổ và được cụ hồi đáp “Sẽ có sứ Thanh Giang tới cùng nhà vua xây dựng thì mới thành công”.
Sáng hôm sau, một con rùa lớn nổi lên mặt nước, tự xưng là sứ Thanh Giang, bảo rằng muốn xây được thành thì phải diệt trừ hết lũ yêu quái thường hay quấy nhiễu xung quanh. Rùa Vàng giúp cha ta diệt trừ yêu quái, đến khi xây xong thành ở lại ba năm rồi rời đi. Cha luôn lo lắng thái bình cho nhân dân, vì vậy lúc chia tay, ông cảm tạ: “Nhờ ơn Thần mà thành đã xây xong. Nay nếu có giặc ngoài đến thì lấy gì mà chống?”. Rùa Vàng tháo một chiếc vuốt trao cho cha ta, dặn lấy làm lẫy nỏ, giặc đến, cứ nhằm bắn thì sẽ không lo gì nữa. Dứt lời, Rùa Vàng trở về biển Đông. Cha theo lời dặn, sai một tướng tài là Cao Lỗ chế ra chiếc nỏ lớn lấy vuốt của Rùa Vàng làm lẫy gọi là nỏ thần Kim Quy.
Lúc bấy giờ ở đất Nam Hải, có Triệu Đà làm chúa, mấy lần đem quân sang cướp đất Âu Lạc, nhưng cha có nỏ thần, quân Nam Hải bị thất bại rất nhiều. Triệu Đà chợt không động tĩnh một thời gian. Sau đó, ta thấy hắn xin giảng hòa với cha, sai con trai là Trọng Thuỷ sang cầu thân ta. Mãi sau này, khi quân Đà kéo sang mà nỏ thần mất đi công hiệu, ta mới hiểu mục đích của hắn là hủy đi nỏ thần.
Trọng Thủy gặp ta, khi ấy là một thiếu nữ mắt phượng mày ngài. Trọng Thủy đem lòng yêu ta, dần dần ta cũng xiêu lòng. Chúng ta dần trở nên thân thiết, ta dẫn chàng tới mọi nơi trong Loa thành. Cha ta không nghi kỵ gì cả. Sau một thời gian, vua cha liền gả ta cho Trọng Thủy. Chàng sang ở trong cung điện của cha mà không quay lại nước mình, cùng chung sống. Một đêm, Trọng Thủy chợt hỏi ta:
- Nàng ơi, bên Âu Lạc có bí quyết gì mà không ai đánh được?
Ta không để ý nhiều, vô tư đáp:
- Có bí quyết gì đâu chàng, Âu Lạc đã có thành cao, hào sâu, lại có nỏ thần bắn một phát chết hàng nghìn quân địch, như thế còn có kẻ nào đánh nổi được!
Thấy chàng ngạc nhiên, ngỏ ý muốn xem, ta cho rằng chàng chưa nghe danh nỏ thần bao giờ nên ngây thơ chạy ngay vào chỗ nằm của cha, lấy nỏ thần đem ra, lại chỉ cho chàng biết cái lẫy vốn là chiếc móng chân thần Kim Quy và giảng cho Trọng Thủy cách bắn. Trọng Thủy chăm chú nghe, nhìn cái lẫy và khuôn khổ nó hồi lâu, rồi đưa cho ta cất đi.
Sau đó ít lâu, Trọng Thủy xin phép cha ta về Nam Hải. Khi Trọng Thủy quay lại, tôi vui mừng khôn xiết. Thấy vậy, cha liền sai gia nhân bày tiệc rượu để ba cha con cùng vui. Trọng Thủy uống cầm chừng, còn cha và ta thì say túy lúy. Hôm sau, thấy chàng bồn chồn, hết đứng lại ngồi không yên, ta hỏi:
- Chàng như có gì lo lắng phải không?
Trọng Thủy đáp:
- Ta sắp phải đi, Phụ vương dặn phải về ngay để còn lên miền Bắc, miền Bắc xa lắm nàng ạ.
Nghe vậy, ta buồn rầu lặng thinh. Trọng Thủy nói tiếp:
- Bây giờ đôi ta sắp phải xa nhau, không biết đến bao giờ gặp lại! Nếu chẳng may xảy ra binh đao, biết đâu mà tìm?
Ta tin lời chàng, đau đớn đáp lại:
- Thiếp có cái áo lông ngỗng, hễ thiếp chạy về hướng nào thì thiếp sẽ rắc lông ngỗng dọc đường, chàng cứ chạy theo dấu lông ngỗng mà tìm.
Nói xong, nghĩ đến việc không được gặp lại nhau tôi bật khóc nức nở.
Chỉ ít ngày sau khi Trọng Thủy đi, Triệu Đà bất ngờ đem quân sang đánh. Nghe tin báo, cha cậy có nỏ thần, không phòng bị gì cả. Quân giặc đã đến sát chân thành, cha mới đem nỏ thần ra bắn, nhưng không thấy linh nghiệm nữa. Quân Triệu Đà phá cửa thành, ùa vào. Cha vội lên ngựa, để ta ngồi sau lưng, phi ngựa thoát ra cửa sau. Ngồi sau lưng cha, ta nhớ lời hứa với Trọng Thủy, bứt lông ngỗng ở áo rải khắp dọc đường chạy trốn.
Đường núi gập ghềnh hiểm trở, ngựa chạy suốt mấy ngày đêm đến Dạ Sơn gần bờ biển. Hai cha con ta định xuống ngựa ngồi nghỉ một lát thì quân giặc đã gần đến. Nhưng đường núi quanh co dốc ngược, bóng chiều đã xuống, không còn lối nào chạy, cha liền hướng ra biến, khấn thần Kim Quy phù hộ. Cha vừa khấn xong thì một cơn gió lốc cát bụi bốc lên mù mịt, làm rung chuyển cả núi rừng. Thần Kim Quy xuất hiện, bảo cha rằng:
- Giặc ở sau lưng nhà vua đấy!
Cha quay đầu nhìn ta. Ngay lúc đó, ta cũng chợt đau đớn hiểu ra sự tình. Hóa ra cầu thân là có âm mưu. Trọng Thủy đã tráo nỏ thần nên nỏ của cha mới không còn hiệu nghiệm. Chàng trở về là để báo cho cha mình đem quân sang đánh Âu Lạc. Bao uấn khúc bấy giờ mới vỡ lẽ. Nhưng tất cả đều đã muộn, cha tuốt gươm, chém ta. Sự đau đớn trên cơ thể không lớn bằng nỗi dằn vặt trong tim. Ta nhìn theo bóng cha đang đi xuống biển, lòng ngập tràn ân hận về tội nghiệt mình gây ra cho ông, cho dân chúng vô tội. Ta thầm cầu mong cha được bình yên mọi sai lầm ta đã gây ra, ta nguyện chịu tất cả sự trừng phạt. Còn Trọng Thuỷ chỉ là một mảnh tình duyên ngang trái, lầm lạc.
HT
TL:
Văn hóa ở nước ta dưới thời kì Bắc thuộc có đặc điểm nổi bật là tiếp thu và sáng tạo yếu tố bên ngoài, giữ gìn những giá trị văn hóa cốt lõi của dân tộc.
HT
Thánh địa Mỹ Sơn đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới từ năm 1999, là một quần thể đền tháp đã tồn tại nghìn năm, ghi dấu quá khứ vàng son của vương quốc Chămpa cổ, trở thành điểm tham quan rất giá trị.
Xưa, vương quốc Chămpa là trung tâm trồng trọt và đánh bắt thủy sản trong khu vực có thể sánh ngang với Angkor (Campuchia), thậm chí vượt qua Angkor về tài nguyên và thương mại. Với sự thịnh vượng nhờ vào lâm sản, nông sản (lúa nước) và thủy hải sản, vương triều Chămpa đã phát triển thế lực và ảnh hưởng, giao thương với Ấn Độ từ những kỷ nguyên đầu tiên sau Công nguyên. Tiếp nhận ảnh hưởng của Ấn Giáo, nhiều đền tháp đã được xây dựng để thờ các vị thần như Brama và Vishnu, nhưng Shiva giữ vai trò ngự trị toàn vùng.
Theo lịch sử, Thánh địa Mỹ Sơn được hình thành từ thế kỷ thứ IV đến thế kỷ XIII, là trung tâm tôn giáo tập trung vương quyền và thần quyền của vương quốc Chămpa gần 1000 năm, khoảng thời gian mà các vị vua đã dâng lên thần linh những đền tháp tuyệt mỹ, cũng là cách để ghi công đức của mình. Trải qua chiến tranh Thế giới lần thứ 2, chiến tranh Đông dương lần thứ 1, đặc biệt chiến tranh Đông dương lần thứ 2, nhiều đền tháp đã bị phá hủy, tuy nhiên những đền tháp còn lại đã được bảo tồn tốt, hé mở bí ẩn về nền văn minh Chămpa cổ xưa.
Giá trị của đền tháp Mỹ Sơn đã được các nhà khảo cổ, các sử gia và các học giả đánh giá là tuyệt tác về xây dựng của thời đại, cả về phương diện kỹ thuật và điêu khắc. Đây là những công trình độc đáo có một không hai ở Đông Nam Á, là điển hình nổi bật về sự giao lưu văn hóa với sự hội nhập vào văn hóa bản địa cùng những ảnh hưởng bên ngoài, đặc biệt là nghệ thuật và kiến trúc từ lục địa Ấn Độ. Khu thánh địa Mỹ Sơn còn phản ánh sinh động vai trò của vương quốc Chămpa trong lịch sử văn hóa và chính trị của khu vực Đông Nam Á.
Thuộc vùng núi phía Tây của huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam ngày nay, khu di tích đền tháp Mỹ Sơn tọa lạc trong một thung lũng có đường kính khoảng 2km được bao bọc bởi các dãy núi hùng vĩ, có một dòng suối nhỏ chảy ngang qua, sau đó đổ vào sông Thu Bồn, rồi xuôi ra biển qua cảng thị cổ Hội An. Bao gồm 13 nhóm công trình với hơn 70 kiến trúc đền tháp có liên hệ mật thiết với nhau, những di tích hiện hữu và phế tích trong các nhóm đã thể hiện một lịch sử kiến trúc liên tục suốt gần 10 thế kỷ tồn tại của vương quốc Chămpa.
Trong số các dạng kiến trúc tháp Chăm, kiến trúc dạng quần thể như khu di tích Thánh địa Mỹ Sơn là hiếm có. Được bố trí theo cụm, từ hai hoặc nhiều tháp, có tường bao, sân, đường đi nối các tháp với nhau, ở giữa là đền thờ chính. Trước mặt đền thờ chính (KaLan) là một tháp cổng (Gopura) với cấu trúc nhỏ của hai cửa thông nhau (một cửa hướng Đông, một cửa hướng vào đền chính); tiếp nối thường là gian nhà dài (Mandapa) có mái lợp ngói, bên trong rộng rãi làm nơi đón khách hành hương và tiếp nhận lễ vật cũng như cử hành các vũ điệu trong các lễ cúng hiến cho thần linh. Xung quanh ngôi đền chính là các ngôi đền nhỏ hoặc các công trình phụ…
Nguồn: https://vanmau.org/thuyet-minh-ve-thanh-dia-son.html#ixzz7Lj1EGJuy
đây nek bro
TL:
Nghề làm giấy nha
Dưới thời Bắc thuộc, một số nghề thủ công mới xuất hiện ở nước ta như làm giấy, làm thủy tinh,...
HT
tham khảo
Sau khi bình định đất Nam Kỳ, chính quyền thực dân ở Mỹ Tho và Gò Công ráo riết đẩy mạnh việc vơ vét, bóc lột nhân dân ta để làm giàu cho chính quốc và bọn tư bản Pháp.
Nông nghiệp là ngành mà thực dân chú trọng nhiều nhất, bởi vì đầu tư ít vốn, nhưng thu được lợi nhuận cao thông qua việc xuất cảng thóc gạo. Ruộng đất bị thực dân Pháp chiếm đoạt một cách trắng trợn nhưng lại được "Hợp pháp hóa" bằng những sắc lệnh, nghị định. Ngoài ra, các địa chủ người Pháp lẫn người Việt tăng cường bóc lột phong kiến với mức địa tô rất nặng nề, thông thường chiếm đến 67% hoa lợi mà người nông dân tá điền thu được.
Ngoài ra, tầng lớp địa chủ còn tiến hành nhiều phương cách khác để bóc lột tá điền, như đặt ra lệ công lễ, vật lễ (tức là ngày công phải phục dịch vào các dịp lễ, Tết, giỗ chạp, những vật phẩm phải nộp như gạo nếp, vịt, sáp ong, rượu, trà,...), cho vay lãi nặng hoặc bán chịu cho tá điền những mặt hàng thiết yếu (vải vóc, nước mắm, muối, dầu lửa,...) để đến vụ mùa thu hoạch thì thu lại lúa với lãi suất cao,...
Công nghiệp ở địa phương hầu như không có sự đầu tư đáng kể nào của chính quyền thực dân và tư bản Pháp. Địa phương chí tỉnh Mỹ Tho năm 1902 cho biết : "Ở tỉnh Mỹ Tho, công nghiệp hoàn toàn không có gì, không có xưởng chế tạo máy và tất nhiên không có máy móc tinh xảo". Tại Tiền Giang, bọn chúng chỉ đầu tư vào ngành thu lợi lớn nhất là xay xát thóc gạo, tuy nhiên số lượng ít và công suất lại rất nhỏ. Địa phương chí tỉnh Gò Công năm 1936 cho biết : "Công nghiệp phát triển duy nhất ở trong tỉnh là các nhà máy xay lúa, với 22 nhà máy chạy bằng dầu, bao gồm 3 cái ở tỉnh lỵ và 19 cái ở các làng".
Về giao thông, ngay sau khi chiếm đóng, thực dân Pháp đã có ý thức rất rõ tầm quan trọng của các con kênh đào ở đây. Tháng 5/1877, chính quyền Pháp cho đào kênh Chợ Gạo nối sông Tiền tại rạch Kỳ Hôn với sông Vàm Cỏ Tây.
Do địa hình thường bị cắt xẻ bởi sông rạch nên ở một số tuyến đường liên tỉnh và nội hạt, chính quyền Pháp cho thiết lập các bến phà để đảm bảo việc giao thông liên lạc, như phà Rạch Miễu nối Mỹ Tho với Bến Tre, phà Mỹ Thuận nối Mỹ Tho với Vĩnh Long, phà Chợ Gạo nối Mỹ Tho với Gò Công, phà Mỹ Lợi nối Gò Công với Chợ Lớn và phà Rạch Lá nối Gò Công với Tân An.
Ngoài ra, hệ thông cầu cũng bắt đầu được xây dựng. Năm 1895, chiếc cầu Quay được hoàn thành. Chiếc cầu này đã giúp cho đô thị Mỹ Tho có điều kiện phát triển về mọi mặt, nhất là về kinh tế - thương mại.
Sở dĩ như vậy là do, Tiền Giang là cửa ngõ của Đồng bằng sông Cửu Long, đóng vai trò quan trọng trong việc vận chuyển hàng hóa từ các tỉnh miền Tây Nam Bộ đến Sài Gòn và ngược lại, phục vụ cho chính sách tận thu nông sản để xuất khẩu của Pháp.
Bên cạnh hệ thống đường thủy và đường bộ, giới cầm quyền Pháp ở Nam Kỳ còn thiết lập tuyến đường sắt Sài Gòn - Mỹ Tho. Đây là tuyến đường sắt đầu tiên ở Việt Nam.
Việc thiết lập và phát triển hệ thống giao thông đường thủy, đường bộ và đường sắt của Pháp ở Tiền Giang, về mặt khách quan có tác dụng mở rộng lưu thông nội địa. Chỉ riêng năm 1912, người Pháp đã thu được 573.035 francs từ tuyến đường sắt Sài Gòn - Mỹ Tho.
Về thương mại, Pháp đã sử dụng giới tư sản mại bản Hoa kiều, vì họ có vốn lớn, đủ sức mua hàng hóa của Pháp để bán lại ở Việt Nam, đồng thời thu mua lúa gạo của Nam Kỳ bán cho thực dân Pháp để đáp ứng cho yêu cầu xuất khẩu nông sản của tư bản Pháp. Sự cấu kết của tư bản Pháp và tư bản Hoa kiều nhằm hạn chế sự phát triển của giới thương gia người Việt.
Thực dân Pháp còn đặt ra những khoản sưu thuế hết sức nặng nề để tận thu, tận vét tiền của của nhân dân. So với thời nhà Nguyễn, các thứ thuế cũ trong thời kỳ này đều tăng vọt, bên cạnh đó rất nhiều thứ thuế mới đặt ra, như: Thuế thân, thuế muối, thuế rượu và thuế thuốc phiện.
Về giáo dục, ở Mỹ Tho, năm 1879, chính quyền thực dân Pháp thành lập trường Collège de Mytho giảng dạy chương trình trung học đệ nhất cấp (tương đương cấp Trung học cơ sở hiện nay) cho cả xứ Nam Kỳ, 1 trường tiểu học đặt tại tỉnh lỵ và 15 trường sơ học ở 15 tổng. Ở Gò Công, chỉ có 1 trường tiểu học đặt tại tỉnh lỵ và 4 trường sơ học ở 4 tổng. Tuyệt đại đa số nhân dân đều bị mù chữ. Pháp một mặt duy trì những tập quán lạc hậu, lỗi thời, mê tín dị đoan, một mặt tuyên truyền, phổ biến lối sống ăn chơi trác táng, trụy lạc (sòng bạc, tiệm hút, tiệm rượu,...) nhằm tạo tâm lý tự ti, vong bản và thủ tiêu ý chí đấu tranh của nhân dân.
Sự áp bức, bóc lột đã đưa đến sự bần cùng hóa không thể tránh khỏi của nhân dân lao động và kèm theo dó là sự phân hóa xã hội diễn ra ngày càng sâu sắc.
Một bộ phận nông dân không còn đất sống phải rời bỏ nông thôn vào thành thị làm đủ mọi nghề kiếm sống, hoặc phải tha phương cầu thực.
Được thực dân Pháp nâng đỡ, ưu thế kinh tế và chính trị của giai cấp địa chủ không ngừng được tăng lên. Ở tỉnh Mỹ Tho, giai cấp địa chủ chỉ chiếm 1,2% dân số, nhưng sở hữu đến 75% diện tích ruộng đất canh tác của toàn tỉnh. Ở tỉnh Gò Công, giai cấp địa chủ chỉ chiếm 0,3% dân số, nhưng sở hữu đến 50% diện tích ruộng đất canh tác của toàn tỉnh.
Đội ngũ tư sản dân tộc ở Tiền Giang được hình thành vào đầu thế kỉ XX với số lượng và tiềm lực kinh tế, tài chính rất nhỏ bé, chủ yếu làm dịch vụ và thương nghiệp, có một ít mở xưởng sản xuất tiểu thủ công nghiệp.
Do bản chất giai cấp, giới tư sản người Việt bắt tay với tư sản Pháp ra sức bóc lột công nhân để làm giàu. Tuy nhiên, họ cũng bị tư sản Pháp cạnh tranh, chèn ép và kiềm hãm. Do đó, trong chừng mực nhất định, giai cấp này, trừ bọn mại bản, vẫn có tinh thần dân tộc và tham gia đấu tranh chống thực dân Pháp khi có điều kiện.
Tầng lớp tiểu tư sản ở Tiền Giang bao gồm: Tiểu thương, tiểu chủ, viên chức, trí thức, học sinh,... Tuy thu nhập có phần ổn định hơn công nhân, nông dân và dân nghèo thành thị, nhưng do giá cả ngày càng tăng, nên đời sống của họ cũng rất eo hẹp, vất vả và bấp bênh. Vốn có lòng yêu nước, căm thù thực dân xâm lược và có điều kiện tiếp thu những trào lưu tư tưởng mới, tầng lớp này là lực lượng rất tích cực trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
Do sự hình thành của một số xưởng sản xuất nên đội ngũ công nhân ở Tiền Giang đã ra đời, nhưng với số lượng ít ỏi và mức độ tập trung còn thấp. Song, vốn xuất thân từ người nông dân bị bần cùng hóa phải ra thành thị bán sức lao động để kiếm sống và bị thực dân, tư sản, phong kiến bóc lột thậm tệ, lại có tinh thần yêu nước sâu sắc nên giai cấp công nhân, khi được giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin, trở thành lực lượng chính, đảm nhận vai trò lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc dân chủ.
Như vậy, sự thống trị của thực dân Pháp đã tạo ra những biến đổi về kinh tế và xã hội ở Tiền Giang. Sự áp bức tàn bạo về chính trị, bóc lột nặng nề về kinh tế và nô dịch về văn hóa đã tạo nên sự căm phẫn tột độ của các tầng lớp nhân dân, nhất là của quần chúng lao khổ. Mâu thuẫn giữa dân tộc ta với thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến ngày càng trở nên gay gắt. Đó là nguyên nhân chính khiến cho các cuộc đấu tranh của nhân dân Tiền Giang liên tiếp bùng nổ và phát triển ngày càng mạnh mẽ.
2. Phong trào cách mạng ở Tiền Giang trước ngày thành lập Đảng
Đầu năm 1927, một số thanh niên yêu nước ở Tiền Giang được Kỳ bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Nam Kỳ cử sang Quảng Châu (Trung Quốc) dự lớp huấn luyện cách mạng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc mở. Sau khi hoàn thành khóa học, số thanh niên này được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và được phân công về nước nhằm vận động, xây dựng cơ sở và phát triển phong trào cách mạng ở địa phương. Trên cơ sở đó, theo quyết định của Kỳ bộ, vào cuối năm 1927, Tỉnh bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tỉnh Mỹ Tho do Trần Ngọc Giải làm Bí thư, và Tỉnh bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tỉnh Gò Công, do Nguyễn Văn Côn làm Bí thư, lần lượt được ra đời.
Chỉ sau một thời gian ngắn, cơ sở của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên phát triển rộng rãi ra nhiều huyện và nhiều xã trong tỉnh. Ngoài việc thành lập các chi bộ bí mật, các cán bộ hội viên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên trong tỉnh còn tổ chức các Hội quần chúng hoạt động công khai, hợp pháp để tập hợp lực lượng quần chúng, như hội đá banh, hội đọc sách báo, hội trợ táng, hội vần công cấy,... Trong thời gian này, nhiều sách báo cách mạng, như báo Thanh niên, tác phẩm Đường Kách mệnh,... cũng được bí mật truyền bá đến Tiền Giang. Nhờ đó, phong trào đấu tranh của nhân dân Tiền Giang đã chuyển sang khuynh hướng cách mạng vô sản và phát triển ngày càng mạnh mẽ.
Năm 1927, thực hiện chủ trương của Tỉnh bộ, Chi bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên xã Vĩnh Kim thành lập gánh cải lương "Đồng Nữ ban", nhằm lợi dụng sân khâu để tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước và tập hợp thanh niên, đào tạo cán bộ cho cách mạng. Gánh hát hoạt động rất sôi nổi, được quần chúng nhân dân khắp nơi hoan nghênh nhiệt liệt. Đến năm 1929, do sự phá hoại và khủng bố của chính quyền thực dân, gánh cải lương phải giải tán. Mặc dù vậy, gánh "Đồng Nữ ban" đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Phần lớn các diễn viên sau này đều trở thành đảng viên cộng sản.
Năm 1928, thực hiện chủ trương "Vô sản hóa" của Tổng bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Tỉnh bộ đã phân công cán bộ, hội viên xâm nhập vào các nhà máy, hãng xưởng và vùng nông thôn để phát động phong trào đấu tranh của quần chúng. Từ đó, các cuộc đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ như chống bắt đi sưu dịch, bỏ thuế thân, giảm các thứ thuế khác,... được đẩy mạnh khắp nơi trong tỉnh. Đồng bào người Hoa cũng dấy lên phong trào đấu tranh đòi nhà cầm quyền Quốc dân Đảng ở Trung Quốc trả tự do những chiến sĩ Việt Nam đã tham gia cuộc khởi nghĩa Quảng Châu năm 1927.
Năm 1929, Tỉnh bộ Tiền Giang xuất bản báo Lao Nông để chỉ đạo và phản ánh tình hình đấu tranh cách mạng ở địa phương. Trong năm này, phong trào đấu tranh của quần chúng tiếp tục dâng cao trên địa bàn toàn tỉnh, khiến chính quyền địch đối phó vô cùng vất vả.
Dưới sự lãnh đạo của Tổng bộ, Kỳ bộ và sự chỉ đạo của Tỉnh bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, phong trào đấu tranh của nhân dân Tiền Giang trong những năm 1927 - 1929 đã có những bước phát triển mới, đi vào chiều sâu và lan rộng từ thành thị đến nông thôn.
3. Sự thành lập tỉnh bộ Mỹ Tho và tỉnh bộ Gò Công
Sau khi Đông Dương Cộng sản Đảng ra đời ở Bắc Kỳ (6/1929), những hội viên tiên tiến của Kỳ bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Nam Kỳ đã tổ chức hội nghị thành lập An Nam Cộng sản Đảng. Sau hội nghị, các đại biểu Tiền Giang trở về địa phương tiến hành kết nạp đảng viên và xây dựng cơ sở Đảng. Giữa tháng 8/1929, Tỉnh ủy An Nam Cộng sản Đảng tỉnh Mỹ Tho được thành lập do Nguyễn Ngọc Ba làm Bí thư. Trong thời gian này, Chi bộ An Nam Cộng sản Đảng ở Gò Công cũng được ra đời do Nguyễn Văn Côn làm Bí thư. Sau đó, các Chi bộ An Nam Cộng sản đảng lần lượt xuất hiện ở khắp nơi trong tỉnh.
Bên cạnh đó, đầu tháng 12/1929, đại diện của Đông Dương Cộng sản Đảng là Ngô Gia Tự đến Vĩnh Kim (Châu Thành) và xây dựng ở đây chi bộ đầu tiên của tổ chức Đảng, rồi nhanh chóng phát triển rộng ra các xã lân cận.
Sự ra đời của các Chi bộ An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Đảng đã thúc đẩy phong trào cách mạng của nhân dân Tiền Giang phát triển mạnh mẽ, tiêu biểu là các cuộc đấu tranh diễn ra rất quyết liệt trong tháng 01/1930.
Tuy nhiên, sự tồn tại của hai hệ thống tổ chức Đảng trong một địa phương đã dẫn đến sự không thống nhất trong tư tưởng và hành động. Vì thế, phong trào cách mạng ở Tiền Giang đòi hỏi phải có một hệ thống tổ chức Đảng Cộng sản duy nhất. Đó cũng là yêu cầu cấp bách của phong trào cách mạng cả nước.
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập (đầu năm 1930), Ban lâm thời cấp ủy Nam Kỳ đã cử cán bộ về Tiền Giang tiến hành thống nhất các cơ sở Đảng ở đây. Từ tháng 02 đến tháng 4/1930, các Chi bộ cộng sản ở Tiền Giang được thống nhất và xây dựng thêm ở nhiều nơi. Đến cuối tháng 4/1930, Tỉnh ủy lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập do Nguyễn Thiệu làm Bí thư.
Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Tiền Giang ra đời là một bước ngoặt lớn trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân tỉnh nhà. Từ đây, nhân dân Tiền Giang có một Đảng bộ duy nhất của giai cấp công nhân lãnh đạo theo đường lối, chủ trương của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là nhân tố quyết định dẫn đến mọi thắng lợi của nhân dân Tiền Giang trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và trong sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
II. CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 Ở TỈNH MỸ THO VÀ TỈNH GÒ CÔNG
1. Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ năm 1940 ở Tiền Giang
Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (9/1939), thực dân Pháp ở Đông Dương đã cấu kết với phát xít Nhật tăng cường áp bức, bóc lột và đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân ta. Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ 6 (11/1939) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng xác định vấn đề giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Đông Dương.
Lĩnh hội chủ trương mới của trung ương, từ tháng 3/1940, Xứ ủy Nam Kỳ đã phổ biến đề cương khởi nghĩa vũ trang đến các địa phương ở Nam Kỳ. Sau đó, Xứ ủy Nam Kỳ đã triệu tập liên tiếp hai hội nghị vào tháng 7 và tháng 9 năm 1940, nhằm đề ra quyết định khởi nghĩa cũng như mọi công tác chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa sắp tới.
Tiếp thu nghị quyết của Xứ ủy, Tỉnh Đảng bộ Tiền Giang đã tổ chức ba hội nghị vào đầu các tháng 8, 10 và 11 năm 1940 tại xã Thạnh Phú, huyện Châu Thành nhằm thống nhất ý chí và hành động cũng như bàn những việc cụ thể cho cuộc khởi nghĩa ở tỉnh nhà. Công tác chuẩn bị được xúc tiến ráo riết. Khu rừng Ba U thuộc hai xã Long Định và Tam Hiệp (huyện Châu Thành) được chọn làm căn cứ của cuộc khởi nghĩa. Các đội du kích ở xã, huyện và đội tự vệ vũ trang ở các hãng, xưởng lần lượt được thành lập. Phong trào mua sắm vũ khí, rèn gươm đao, luyện tập võ nghệ, quân sự, tích trữ lương thực diễn ra sôi nổi ở khắp nơi. Ủy ban khởi nghĩa, bao gồm các ban Tham mưu, Tác chiến, Binh vận, Hậu cần, Cứu thương được ra đời.
20 giờ ngày 22/11/1940, lệnh khởi nghĩa của Xứ ủy được truyền đạt xuống Tỉnh ủy. Nhưng, kế hoạch khởi nghĩa ở Sài Gòn bị lộ. Ở Tiền Giang, địch tăng cường việc bố phòng. Tuy vậy, cuộc khởi nghĩa vẫn nổ ra đúng giờ quy định (0 giờ ngày 23/11/1940) với trận mở đầu là cuộc tấn công vào đồn Thạnh Phú (huyện Châu Thành) của du kích và nhân dân sở tại. Ngay sau đó, nghĩa quân ở các xã thuộc huyện Châu Thành đã đồng loạt đánh chiếm các đồn Tam Hiệp, cầu đúc Long Định và trụ sở xã Tân Lý Tây, khiến bọn địch phải bỏ các đồn lẻ, rút quân về tỉnh lỵ và các thị trấn để cố thủ.
Từ Châu Thành, cuộc khởi nghĩa lan rộng ra khắp nơi trong tỉnh với khí thế dâng cao chưa từng thấy. Quần chúng cách mạng nô nức nổi dậy giành chính quyền. Tính chung, ta đã làm chủ được khoảng 60 xã, chiếm hơn một nửa tổng số xã trên địa bàn toàn tỉnh.
Cũng ngay trong ngày 23/11/1940, từ trong không khí sục sôi của cuộc khởi nghĩa, chính quyền cách mạng tỉnh đã được ra đời. Trụ sở Ủy ban cách mạng tỉnh đặt tại đình Long Hưng (huyện Châu Thành). Tại đây, lần đầu tiên trong lịch sử, lá Cờ đỏ sao vàng năm cánh đã được xuất hiện, có tác dụng to lớn trong việc cổ vũ, động viên quần chúng xông lên quyết chiến với thực dân Pháp. Tiếp theo, chính quyền cách mạng lần lượt được thành lập ở nhiều xã trong tỉnh. Tại những nơi đó, chính quyền cách mạng tiến hành trấn áp bọn phản động và thực thi nhiều biện pháp nhằm đem lại các quyền tự do, dân chủ và dân sinh cho nhân dân.
Trước sự tiến công mạnh mẽ của quần chúng, thực dân Pháp đã cho thay tên Chủ tỉnh và huy động lực lượng hùng hậu dìm cuộc khởi nghĩa trong bể máu. Tuy tạm thời bị thất bại nhưng cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ ở Tiền Giang đã thể hiện ý chí tiến công cách mạng quyết liệt của quần chúng công - nông, mở ra cao trào giải phóng dân tộc của đất nước và để lại những bài học quý báu về việc sử dụng bạo lực cách mạng trong công cuộc đấu tranh giành lại nền độc lập, tự do cho Tổ quốc.
2. Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 tại Tiền Giang
Mặc dù bị địch điên cuồng đánh phá, nhưng phong trào cách mạng ở Tiền Giang vẫn được giữ vững. Đến cuối năm 1943, các đoàn thể cứu quốc thuộc Mặt trận Việt Minh, như Nông dân cứu quốc, Công nhân cứu quốc, Phụ lão cứu quốc, Nhi đồng cứu quốc,... được thành lập và phát triển rộng khắp ở trong tỉnh. Một số tổ chức quần chúng, như Hội Khuyến học, Hội Truyền bá Quốc ngữ,... cũng lần lượt được ra đời. Phong trào đấu tranh của quần chúng đòi các quyền dân sinh, dân chủ ngày càng trở nên sôi nổi.
Sau ngày phát xít Nhật đảo chính thực dán Pháp (9/3/1945), phong trào cách mạng ở Tiền Giang tiếp tục dâng cao. Tháng 5/1945, Tỉnh ủy Mỹ Tho và Tỉnh ủy lâm thời Gò Công được tái lập. Hệ thống cơ sở Đảng đã được củng cố và phát triển mạnh ở khắp các địa phương. Mặt trận Việt Minh tỉnh đẩy mạnh công tác tuyên truyền, bồi dưỡng chính trị, huấn luyện quân sự cho quần chúng, lực lượng du kích và Thanh niên Tiền phong, ở vùng nông thôn, chính quyền địch rệu rã, tê liệt, đặc biệt tại một số nơi, chính quyền cách mạng đã được thành lập. Đến đầu tháng 8/1945, ở Tiền Giang, điều kiện khởi nghĩa đã chín muồi, tình thế cách mạng trực tiếp đã xuất hiện. Tất cả đã chuẩn bị sẵn sàng.
Giữa lúc đó, ngày 14/8/1945, phát xít Nhật đầu hàng lực lượng Đồng minh vô điều kiện. Quân Nhật và bọn tay sai ở Mỹ Tho và Gò Công hoang mang, mất hết tinh thần. Các đảng phái thân Nhật ngừng hoạt động. Trước tình hình đó, ngày 17/8/1945, hội nghị của Tỉnh ủy Mỹ Tho được triệu tập. Hội nghị quyết định phát động cuộc khởi nghĩa trong toàn tỉnh. Còn Tỉnh ủy Gò Công thành lập Ủy ban Dân tộc Giải phóng lâm thời để đẩy mạnh việc tổ chức lực lượng cách mạng nhằm tiến lên khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ đến.
Ngày 18/8/1945, vào lúc 4 giờ sáng, học viên Trường Quân chính tỉnh được biên chế thành ba trung đội tiến vào thị xã Mỹ Tho, phối hợp với lực lượng chính trị của quần chúng, nhanh chóng đánh chiếm các cơ quan trọng yếu của địch như tòa Bố, tòa Án, kho bạc, trại lính mã tà, bót cảnh sát, bót mật thám,... Toàn bộ khu vực tỉnh lỵ rợp đỏ màu cờ. Hàng nghìn quần chúng đã đổ ra đường tổ chức các cuộc biểu tình tuần hành thị uy. Trong các ngày tiếp theo, những cuộc mít tinh biểu dương lực lượng đã được tổ chức với sự tham gia của đông đảo quần chúng. Lực lượng thanh niên vũ trang được bố trí canh gác suốt ngày đêm để giữ gìn an ninh trật tự.
Cuộc khởi nghĩa ở thị xã Mỹ Tho giành được thắng lợi đã có tác động dây chuyền đến các địa phương ở trong tỉnh. Quần chúng ở các huyện lần lượt khởi nghĩa và đều giành được thắng lợi: Huyện Châu Thành (22/8), huyện Cai Lậy và huyện Chợ Gạo (23/8), huyện Cái Bè (24/8). Trên cơ sở đó, tối ngày 24/8, Ủy ban nhân dân tỉnh Mỹ Tho được thành lập và sáng sớm hôm sau ra mắt đồng bào tại sân vận động tỉnh.
Ở Gò Công, ngày 23/8/1945, trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng, viên Tỉnh trưởng ngụy quyền chấp nhận bàn giao chính quyền cho Ủy ban Dân tộc giải phóng lâm thời tỉnh Gò Công. Ngay sau đó, cờ Nhật và cờ của chính quyền bù nhìn bị hạ xuống; đồng thời cờ đỏ sao vàng được trang trọng kéo lên ở dinh Tỉnh trưởng ngụy và xuất hiện ở nhiều nơi tại thị xã. Sáng ngày 24/8, hàng chục nghìn quần chúng tập hợp tại tỉnh lỵ dự cuộc mít tinh biểu dương lực lượng và chứng kiến sự ra đời của Ủy ban nhân dân tỉnh Gò Công. Tiếp theo, quần chúng tỏa về các địa phương giải tán các ban hội tề và thành lập chính quyền cách mạng ở những nơi đó. Ngày 2/9/1945, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân, Mặt trận Việt Minh tỉnh Mỹ Tho và tỉnh Gò Công đã tổ chức hai cuộc đại lễ ở thị xã Mỹ Tho và thị xã Gò Công để chào mừng ngày độc lập của đất nước.
Cuộc khởi nghĩa tháng 8/1945 ở Tiền Giang giành được thắng lợi rực rỡ là do các nguyên nhân sau đây:
- Nhân dân Tiền Giang có lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần đấu tranh anh dũng, quyết tâm chống đế quốc, phong kiến, giành lại nền độc lập cho đất nước, quê hương và quyền làm chủ thật sự cho bản thân mình.
- Đảng bộ Tiền Giang đã vận dụng sáng tạo đường lối, chủ trương của Trung ương Đảng và Xứ ủy Nam Kỳ vào điều kiện cụ thể của địa phương, nhằm lãnh đạo nhân dân vùng lên giành thắng lợi cho cách mạng.
- Hoàn cảnh khách quan thuận lợi: Nhật đầu hàng Đồng minh; quân Nhật và chính quyền tay sai Nhật ở Mỹ Tho và Gò Công hoang mang, dao động.
Thắng lợi của nhân dân Tiền Giang đã góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của toàn dân tộc trong cuộc Cách mạng tháng Tám 1945: Đánh đổ ách thống trị của bọn thực dân, phát xít; lật nhào chế độ quân chủ trên đất nước ta; mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc: Kỷ nguyên độc lập, tự do và đi lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời, cổ vũ, động viên các dân tộc thuộc địa đứng lên đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập, tự do cho dân tộc mình.
TK:
20/01/2019 - Lượt xem: 639518
I. SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH MỸ THO VÀ TỈNH GÒ CÔNG
1. Sự thống trị của thực dân Pháp
Sau khi bình định đất Nam Kỳ, chính quyền thực dân ở Mỹ Tho và Gò Công ráo riết đẩy mạnh việc vơ vét, bóc lột nhân dân ta để làm giàu cho chính quốc và bọn tư bản Pháp.
Nông nghiệp là ngành mà thực dân chú trọng nhiều nhất, bởi vì đầu tư ít vốn, nhưng thu được lợi nhuận cao thông qua việc xuất cảng thóc gạo. Ruộng đất bị thực dân Pháp chiếm đoạt một cách trắng trợn nhưng lại được "Hợp pháp hóa" bằng những sắc lệnh, nghị định. Ngoài ra, các địa chủ người Pháp lẫn người Việt tăng cường bóc lột phong kiến với mức địa tô rất nặng nề, thông thường chiếm đến 67% hoa lợi mà người nông dân tá điền thu được.
Ngoài ra, tầng lớp địa chủ còn tiến hành nhiều phương cách khác để bóc lột tá điền, như đặt ra lệ công lễ, vật lễ (tức là ngày công phải phục dịch vào các dịp lễ, Tết, giỗ chạp, những vật phẩm phải nộp như gạo nếp, vịt, sáp ong, rượu, trà,...), cho vay lãi nặng hoặc bán chịu cho tá điền những mặt hàng thiết yếu (vải vóc, nước mắm, muối, dầu lửa,...) để đến vụ mùa thu hoạch thì thu lại lúa với lãi suất cao,...
Công nghiệp ở địa phương hầu như không có sự đầu tư đáng kể nào của chính quyền thực dân và tư bản Pháp. Địa phương chí tỉnh Mỹ Tho năm 1902 cho biết : "Ở tỉnh Mỹ Tho, công nghiệp hoàn toàn không có gì, không có xưởng chế tạo máy và tất nhiên không có máy móc tinh xảo". Tại Tiền Giang, bọn chúng chỉ đầu tư vào ngành thu lợi lớn nhất là xay xát thóc gạo, tuy nhiên số lượng ít và công suất lại rất nhỏ. Địa phương chí tỉnh Gò Công năm 1936 cho biết : "Công nghiệp phát triển duy nhất ở trong tỉnh là các nhà máy xay lúa, với 22 nhà máy chạy bằng dầu, bao gồm 3 cái ở tỉnh lỵ và 19 cái ở các làng".
Về giao thông, ngay sau khi chiếm đóng, thực dân Pháp đã có ý thức rất rõ tầm quan trọng của các con kênh đào ở đây. Tháng 5/1877, chính quyền Pháp cho đào kênh Chợ Gạo nối sông Tiền tại rạch Kỳ Hôn với sông Vàm Cỏ Tây.
Do địa hình thường bị cắt xẻ bởi sông rạch nên ở một số tuyến đường liên tỉnh và nội hạt, chính quyền Pháp cho thiết lập các bến phà để đảm bảo việc giao thông liên lạc, như phà Rạch Miễu nối Mỹ Tho với Bến Tre, phà Mỹ Thuận nối Mỹ Tho với Vĩnh Long, phà Chợ Gạo nối Mỹ Tho với Gò Công, phà Mỹ Lợi nối Gò Công với Chợ Lớn và phà Rạch Lá nối Gò Công với Tân An.
Ngoài ra, hệ thông cầu cũng bắt đầu được xây dựng. Năm 1895, chiếc cầu Quay được hoàn thành. Chiếc cầu này đã giúp cho đô thị Mỹ Tho có điều kiện phát triển về mọi mặt, nhất là về kinh tế - thương mại.
Sở dĩ như vậy là do, Tiền Giang là cửa ngõ của Đồng bằng sông Cửu Long, đóng vai trò quan trọng trong việc vận chuyển hàng hóa từ các tỉnh miền Tây Nam Bộ đến Sài Gòn và ngược lại, phục vụ cho chính sách tận thu nông sản để xuất khẩu của Pháp.
Bên cạnh hệ thống đường thủy và đường bộ, giới cầm quyền Pháp ở Nam Kỳ còn thiết lập tuyến đường sắt Sài Gòn - Mỹ Tho. Đây là tuyến đường sắt đầu tiên ở Việt Nam.
Việc thiết lập và phát triển hệ thống giao thông đường thủy, đường bộ và đường sắt của Pháp ở Tiền Giang, về mặt khách quan có tác dụng mở rộng lưu thông nội địa. Chỉ riêng năm 1912, người Pháp đã thu được 573.035 francs từ tuyến đường sắt Sài Gòn - Mỹ Tho.
Về thương mại, Pháp đã sử dụng giới tư sản mại bản Hoa kiều, vì họ có vốn lớn, đủ sức mua hàng hóa của Pháp để bán lại ở Việt Nam, đồng thời thu mua lúa gạo của Nam Kỳ bán cho thực dân Pháp để đáp ứng cho yêu cầu xuất khẩu nông sản của tư bản Pháp. Sự cấu kết của tư bản Pháp và tư bản Hoa kiều nhằm hạn chế sự phát triển của giới thương gia người Việt.
Thực dân Pháp còn đặt ra những khoản sưu thuế hết sức nặng nề để tận thu, tận vét tiền của của nhân dân. So với thời nhà Nguyễn, các thứ thuế cũ trong thời kỳ này đều tăng vọt, bên cạnh đó rất nhiều thứ thuế mới đặt ra, như: Thuế thân, thuế muối, thuế rượu và thuế thuốc phiện.
Về giáo dục, ở Mỹ Tho, năm 1879, chính quyền thực dân Pháp thành lập trường Collège de Mytho giảng dạy chương trình trung học đệ nhất cấp (tương đương cấp Trung học cơ sở hiện nay) cho cả xứ Nam Kỳ, 1 trường tiểu học đặt tại tỉnh lỵ và 15 trường sơ học ở 15 tổng. Ở Gò Công, chỉ có 1 trường tiểu học đặt tại tỉnh lỵ và 4 trường sơ học ở 4 tổng. Tuyệt đại đa số nhân dân đều bị mù chữ. Pháp một mặt duy trì những tập quán lạc hậu, lỗi thời, mê tín dị đoan, một mặt tuyên truyền, phổ biến lối sống ăn chơi trác táng, trụy lạc (sòng bạc, tiệm hút, tiệm rượu,...) nhằm tạo tâm lý tự ti, vong bản và thủ tiêu ý chí đấu tranh của nhân dân.
Sự áp bức, bóc lột đã đưa đến sự bần cùng hóa không thể tránh khỏi của nhân dân lao động và kèm theo dó là sự phân hóa xã hội diễn ra ngày càng sâu sắc.
Một bộ phận nông dân không còn đất sống phải rời bỏ nông thôn vào thành thị làm đủ mọi nghề kiếm sống, hoặc phải tha phương cầu thực.
Được thực dân Pháp nâng đỡ, ưu thế kinh tế và chính trị của giai cấp địa chủ không ngừng được tăng lên. Ở tỉnh Mỹ Tho, giai cấp địa chủ chỉ chiếm 1,2% dân số, nhưng sở hữu đến 75% diện tích ruộng đất canh tác của toàn tỉnh. Ở tỉnh Gò Công, giai cấp địa chủ chỉ chiếm 0,3% dân số, nhưng sở hữu đến 50% diện tích ruộng đất canh tác của toàn tỉnh.
Đội ngũ tư sản dân tộc ở Tiền Giang được hình thành vào đầu thế kỉ XX với số lượng và tiềm lực kinh tế, tài chính rất nhỏ bé, chủ yếu làm dịch vụ và thương nghiệp, có một ít mở xưởng sản xuất tiểu thủ công nghiệp.
Do bản chất giai cấp, giới tư sản người Việt bắt tay với tư sản Pháp ra sức bóc lột công nhân để làm giàu. Tuy nhiên, họ cũng bị tư sản Pháp cạnh tranh, chèn ép và kiềm hãm. Do đó, trong chừng mực nhất định, giai cấp này, trừ bọn mại bản, vẫn có tinh thần dân tộc và tham gia đấu tranh chống thực dân Pháp khi có điều kiện.
Tầng lớp tiểu tư sản ở Tiền Giang bao gồm: Tiểu thương, tiểu chủ, viên chức, trí thức, học sinh,... Tuy thu nhập có phần ổn định hơn công nhân, nông dân và dân nghèo thành thị, nhưng do giá cả ngày càng tăng, nên đời sống của họ cũng rất eo hẹp, vất vả và bấp bênh. Vốn có lòng yêu nước, căm thù thực dân xâm lược và có điều kiện tiếp thu những trào lưu tư tưởng mới, tầng lớp này là lực lượng rất tích cực trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
Do sự hình thành của một số xưởng sản xuất nên đội ngũ công nhân ở Tiền Giang đã ra đời, nhưng với số lượng ít ỏi và mức độ tập trung còn thấp. Song, vốn xuất thân từ người nông dân bị bần cùng hóa phải ra thành thị bán sức lao động để kiếm sống và bị thực dân, tư sản, phong kiến bóc lột thậm tệ, lại có tinh thần yêu nước sâu sắc nên giai cấp công nhân, khi được giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin, trở thành lực lượng chính, đảm nhận vai trò lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc dân chủ.
Như vậy, sự thống trị của thực dân Pháp đã tạo ra những biến đổi về kinh tế và xã hội ở Tiền Giang. Sự áp bức tàn bạo về chính trị, bóc lột nặng nề về kinh tế và nô dịch về văn hóa đã tạo nên sự căm phẫn tột độ của các tầng lớp nhân dân, nhất là của quần chúng lao khổ. Mâu thuẫn giữa dân tộc ta với thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến ngày càng trở nên gay gắt. Đó là nguyên nhân chính khiến cho các cuộc đấu tranh của nhân dân Tiền Giang liên tiếp bùng nổ và phát triển ngày càng mạnh mẽ.
2. Phong trào cách mạng ở Tiền Giang trước ngày thành lập Đảng
Đầu năm 1927, một số thanh niên yêu nước ở Tiền Giang được Kỳ bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Nam Kỳ cử sang Quảng Châu (Trung Quốc) dự lớp huấn luyện cách mạng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc mở. Sau khi hoàn thành khóa học, số thanh niên này được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và được phân công về nước nhằm vận động, xây dựng cơ sở và phát triển phong trào cách mạng ở địa phương. Trên cơ sở đó, theo quyết định của Kỳ bộ, vào cuối năm 1927, Tỉnh bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tỉnh Mỹ Tho do Trần Ngọc Giải làm Bí thư, và Tỉnh bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tỉnh Gò Công, do Nguyễn Văn Côn làm Bí thư, lần lượt được ra đời.
Chỉ sau một thời gian ngắn, cơ sở của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên phát triển rộng rãi ra nhiều huyện và nhiều xã trong tỉnh. Ngoài việc thành lập các chi bộ bí mật, các cán bộ hội viên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên trong tỉnh còn tổ chức các Hội quần chúng hoạt động công khai, hợp pháp để tập hợp lực lượng quần chúng, như hội đá banh, hội đọc sách báo, hội trợ táng, hội vần công cấy,... Trong thời gian này, nhiều sách báo cách mạng, như báo Thanh niên, tác phẩm Đường Kách mệnh,... cũng được bí mật truyền bá đến Tiền Giang. Nhờ đó, phong trào đấu tranh của nhân dân Tiền Giang đã chuyển sang khuynh hướng cách mạng vô sản và phát triển ngày càng mạnh mẽ.
Năm 1927, thực hiện chủ trương của Tỉnh bộ, Chi bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên xã Vĩnh Kim thành lập gánh cải lương "Đồng Nữ ban", nhằm lợi dụng sân khâu để tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước và tập hợp thanh niên, đào tạo cán bộ cho cách mạng. Gánh hát hoạt động rất sôi nổi, được quần chúng nhân dân khắp nơi hoan nghênh nhiệt liệt. Đến năm 1929, do sự phá hoại và khủng bố của chính quyền thực dân, gánh cải lương phải giải tán. Mặc dù vậy, gánh "Đồng Nữ ban" đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Phần lớn các diễn viên sau này đều trở thành đảng viên cộng sản.
Năm 1928, thực hiện chủ trương "Vô sản hóa" của Tổng bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Tỉnh bộ đã phân công cán bộ, hội viên xâm nhập vào các nhà máy, hãng xưởng và vùng nông thôn để phát động phong trào đấu tranh của quần chúng. Từ đó, các cuộc đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ như chống bắt đi sưu dịch, bỏ thuế thân, giảm các thứ thuế khác,... được đẩy mạnh khắp nơi trong tỉnh. Đồng bào người Hoa cũng dấy lên phong trào đấu tranh đòi nhà cầm quyền Quốc dân Đảng ở Trung Quốc trả tự do những chiến sĩ Việt Nam đã tham gia cuộc khởi nghĩa Quảng Châu năm 1927.
Năm 1929, Tỉnh bộ Tiền Giang xuất bản báo Lao Nông để chỉ đạo và phản ánh tình hình đấu tranh cách mạng ở địa phương. Trong năm này, phong trào đấu tranh của quần chúng tiếp tục dâng cao trên địa bàn toàn tỉnh, khiến chính quyền địch đối phó vô cùng vất vả.
Dưới sự lãnh đạo của Tổng bộ, Kỳ bộ và sự chỉ đạo của Tỉnh bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, phong trào đấu tranh của nhân dân Tiền Giang trong những năm 1927 - 1929 đã có những bước phát triển mới, đi vào chiều sâu và lan rộng từ thành thị đến nông thôn.
3. Sự thành lập tỉnh bộ Mỹ Tho và tỉnh bộ Gò Công
Sau khi Đông Dương Cộng sản Đảng ra đời ở Bắc Kỳ (6/1929), những hội viên tiên tiến của Kỳ bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Nam Kỳ đã tổ chức hội nghị thành lập An Nam Cộng sản Đảng. Sau hội nghị, các đại biểu Tiền Giang trở về địa phương tiến hành kết nạp đảng viên và xây dựng cơ sở Đảng. Giữa tháng 8/1929, Tỉnh ủy An Nam Cộng sản Đảng tỉnh Mỹ Tho được thành lập do Nguyễn Ngọc Ba làm Bí thư. Trong thời gian này, Chi bộ An Nam Cộng sản Đảng ở Gò Công cũng được ra đời do Nguyễn Văn Côn làm Bí thư. Sau đó, các Chi bộ An Nam Cộng sản đảng lần lượt xuất hiện ở khắp nơi trong tỉnh.
Bên cạnh đó, đầu tháng 12/1929, đại diện của Đông Dương Cộng sản Đảng là Ngô Gia Tự đến Vĩnh Kim (Châu Thành) và xây dựng ở đây chi bộ đầu tiên của tổ chức Đảng, rồi nhanh chóng phát triển rộng ra các xã lân cận.
Sự ra đời của các Chi bộ An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Đảng đã thúc đẩy phong trào cách mạng của nhân dân Tiền Giang phát triển mạnh mẽ, tiêu biểu là các cuộc đấu tranh diễn ra rất quyết liệt trong tháng 01/1930.
Tuy nhiên, sự tồn tại của hai hệ thống tổ chức Đảng trong một địa phương đã dẫn đến sự không thống nhất trong tư tưởng và hành động. Vì thế, phong trào cách mạng ở Tiền Giang đòi hỏi phải có một hệ thống tổ chức Đảng Cộng sản duy nhất. Đó cũng là yêu cầu cấp bách của phong trào cách mạng cả nước.
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập (đầu năm 1930), Ban lâm thời cấp ủy Nam Kỳ đã cử cán bộ về Tiền Giang tiến hành thống nhất các cơ sở Đảng ở đây. Từ tháng 02 đến tháng 4/1930, các Chi bộ cộng sản ở Tiền Giang được thống nhất và xây dựng thêm ở nhiều nơi. Đến cuối tháng 4/1930, Tỉnh ủy lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập do Nguyễn Thiệu làm Bí thư.
Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Tiền Giang ra đời là một bước ngoặt lớn trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân tỉnh nhà. Từ đây, nhân dân Tiền Giang có một Đảng bộ duy nhất của giai cấp công nhân lãnh đạo theo đường lối, chủ trương của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là nhân tố quyết định dẫn đến mọi thắng lợi của nhân dân Tiền Giang trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và trong sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.