K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

18 tháng 1

Olm chào em, cảm ơn đánh giá của em về chất lượng bài giảng của Olm, cảm ơn em đã đồng hành cùng Olm trên hành trình tri thức. Chúc em học tập hiệu quả và vui vẻ cùng Olm em nhé!

Bài này cũng hay thật

18 tháng 1

Olm chào em, cảm ơn em đã cảm thấy vui vẻ và hấp dẫn khi học các bài học trên web của Olm. Chúc em học tập hiệu quả và vui vẻ cùng Olm em nhé.

18 tháng 1

Olm chào em, cảm ơn đánh giá của em về chất lượng bài giảng của Olm, cảm ơn em đã đồng hành cùng Olm trên hành trình tri thức. Chúc em học tập hiệu quả và vui vẻ cùng Olm em nhé!

Bài này hay quá mọi người.

I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4 ĐIỂM) Đọc văn bản sau:      (Tóm tắt phần đầu: Hoàng triều về đời niên hiệu Vĩnh Thịnh có một vị tiến sĩ tên Đinh Hoàn, người làng An Ấp tỉnh Nghệ An. Vợ thứ của ông vốn là con quan họ Nguyễn, tính tình đoan trang, giỏi may vá, lại có tài thơ phú nên ông vừa yêu vừa kính trọng. Năm Ất Tỵ, triều đình cử ông làm sứ thần đi Trung Quốc kết mối bang giao....
Đọc tiếp

I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4 ĐIỂM)

Đọc văn bản sau:

     (Tóm tắt phần đầu: Hoàng triều về đời niên hiệu Vĩnh Thịnh có một vị tiến sĩ tên Đinh Hoàn, người làng An Ấp tỉnh Nghệ An. Vợ thứ của ông vốn là con quan họ Nguyễn, tính tình đoan trang, giỏi may vá, lại có tài thơ phú nên ông vừa yêu vừa kính trọng. Năm Ất Tỵ, triều đình cử ông làm sứ thần đi Trung Quốc kết mối bang giao. Vợ chồng chia tay đầy bịn rịn, nước mắt người vợ tràn xuống như mưa. Người chồng đi sứ, gặp thời tiết mùa đông lạnh giá, bị cảm hàn, bệnh ngày càng trầm trọng và mất vào đêm 30 tháng Chạp, lòng vẫn mang nặng nỗi u hoài vì không làm trọn vẹn việc nước. Người vợ từ khi chồng đi xa, lòng lo buồn mà sinh bệnh. Mối u sầu phát ra văn thơ, có đến hơn 30 bài. Khi biết tin chồng mất thì có ý quyên sinh, người nhà hết lời khuyên nhủ.).

     Người nhà khuyên giải không ăn thua gì có ý đề phòng cẩn thận không rời phu nhân một bước. Một hôm, phu nhân đốt đèn ngồi một mình, khi ấy là mùa thu muộn, gió vàng hiu hắt, cây khuya xào xạc, sâu tường nỉ non, tiếng đập vải lạnh lùng như giã vào lòng người cô phụ, trăng suông như rọi vào giọt lệ Vương Sinh. Nỗi thương tâm khiến phu nhân đờ đẫn, nhìn đâu cũng toàn thấy âu sầu. Phu nhân càng thêm thê thảm, gục xuống bàn mà nức nở khiến cõi lòng chìm sâu vào cõi đê mê. Trong cơn dật dờ đó thấy một người khăn vuông đai rộng từ xa tới gần, nhìn kĩ hóa ra là chính chồng vậy. Phu nhân đón chào, mừng quá chảy nước mắt mà rằng:

     – Từ khi cách biệt đã bốn năm rồi, biết bao nỗi sầu bi, mộng hồn tản mát, không nơi nào là không tìm tung tích lang quân, ấy thế mà lang quân chẳng có đoái hoài gì đến thiếp. Nếu bảo rằng trần gian và thiên thượng hai nơi cách biệt, thì sao Thuấn phi (1) có hội ngộ, Chức Nữ (2) lại tương phùng, vậy lang quân đối với thiếp rất là bạc tình.

     Ông buồn nét mặt mà rằng:

     – Ta từ khi về chầu thiên đình, được trông coi về việc bút nghiên, nơi thiên tào công việc nhiều, không có thì giờ đến thăm nàng, còn tấm lòng khăng khít thủy chung không bao giờ thay đổi.

     Phu nhân muốn lưu ông ở lại tự tình. Ông vỗ về nói:

     – Chết sống là lẽ thường xưa nay, hợp tan là tuần hoàn việc thế. Vị Ngọc Tiên (3) có duyên tái hợp, Dương Thái Chân (4) cơ ước lai sinh. Nàng không cần phải bi phiền về nỗi hạc lánh gương tan, cái ngày chúng ta gặp nhau gần đến rồi.

     Nói xong, có một trận thanh phong, không biết ông biến đi đâu mất. Phu nhân thương khóc chợt tỉnh dậy, sai thị nữ ra xem trời đất chỉ thấy sương mù trắng mờ, đêm đã gần sáng rồi.

     Từ đó phu nhân lại càng có ý chán đời, nhưng chưa có dịp. Đến ngày lễ tiểu tường (5) ông, người nhà bận việc, phu nhân ở trong buồng xé cái áo mà ông tặng ngày trước tự thắt cổ chết. Đến khi người nhà biết thì phu nhân đã tắt thở rồi. Cả nhà thương cảm, tống táng theo lễ. Việc ấy tâu lên, triều đình cho lập đền thờ, đề bảng nêu ra cửa, khắc chữ “Trinh liệt phu nhân từ”, ban cấp tế điền, bốn mùa có tế lễ, người làng cầu đảo đều có linh ứng.

                   (Trích Người liệt nữ ở An Ấp, Truyền kì tân phả, Đoàn Thị Điểm, in trong cuốn Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập 1, Nguyễn Đăng Na giới thiệu và tuyển soạn, NXB Giáo dục, 1997,  tr 344-357)

Chú thích:

(1) Thuấn phi: vợ vua Thuấn, Nga Hoàng và Nữ Anh hai chị em (con vua Nghiêu) đều lấy Thuấn, khi mất làm thần sông Tương.

(2) Chức Nữ: tích Ngưu Lang Chức Nữ, hàng năm được gặp nhau một lần vào ngày mồng 7 tháng 7.

(3) Vị Ngọc Tiên: đời Đường, Vị Cao lúc hàn vi, ở trọ nhà họ Khương, chung tình với nàng Ngọc Tiên. Cao tặng nàng một cái vòng tay, hẹn 7 năm đến cưới làm vợ. Quá hạn không đến, nàng tự sát. Cách đó 13 năm, Cao được làm Tiết độ sứ Ba Thục, có người dâng một ca sĩ rất đẹp tên là Ngọc Tiên, Cao nhận rõ diện mạo y như nàng Ngọc Tiên ngày trước.

(4) Dương Thái Chân: Dương Quý phi bị chết ở núi Mã Ngôi, sau lại tái sinh cùng Đường Minh Hoàng kết làm vợ chồng lần nữa.

(5) Lễ tiểu tường: lễ tang chẵn một năm, cũng gọi là luyện tế.

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trình bày ngắn gọn):

Câu 1. Chỉ ra một số đặc trưng của thể loại truyền kì được thể hiện trong văn bản.

Câu 2. Chỉ ra 3 điển tích, điển cố được sử dụng trong văn bản.

Câu 3. Nêu cảm nhận của anh/chị về tâm trạng của người vợ trong được thể hiện trong lời thoại sau.

     Phu nhân đón chào, mừng quá chảy nước mắt mà rằng:

     – Từ khi cách biệt đã bốn năm rồi, biết bao nỗi sầu bi, mộng hồn tản mát, không nơi nào là không tìm tung tích lang quân, ấy thế mà lang quân chẳng có đoái hoài gì đến thiếp. Nếu bảo rằng trần gian và thiên thượng hai nơi cách biệt, thì sao Thuấn phi có hội ngộ, Chức Nữ lại tương phùng, vậy lang quân đối với thiếp rất là bạc tình.

Câu 4. Chủ đề của văn bản là gì?

Câu 5. Thông qua hành động, lời nói của nhân vật người vợ, anh/chị có nhận xét gì về vẻ đẹp phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam xưa và nay?

0

ko chép mạngb nhé


17 tháng 1

Cảm nghĩ về bài thơi mẹ là mẹ là bến sinh thành của chúng ta. Nuôi ta khôn lớn từng ngày , cho ta những giọt sữa đầu tiên , dạy cách cầm đũa sao cho đúng, tập đi , tập bơi, dạy cách đối nhân xử thế sao cho phải phép.Khi ta không ngoan thì mẹ đánh mắng ta nhưng đó là sự dạy dỗ cho nên người chứ không phải ghét bỏ.Đừng bao giờ nghĩ xấu cho mẹ vì mẹ luôn dành những điều tuyệt vời nhất cho con người mẹ nào cùng vậy.

Đó là cảm nghĩ riêngkhông chép mạng


17 tháng 1

Bài thơ "Thơ về nhà mình" của tác giả Nguyễn Thúy Quỳnh là một tác phẩm mang đậm chất trữ tình và suy tư về quê hương, gia đình. Qua bài thơ, tác giả không chỉ thể hiện tình cảm sâu sắc đối với nơi mình lớn lên mà còn phản ánh những suy nghĩ về cuộc sống, về con người và về giá trị của những điều giản dị xung quanh.

Mở đầu bài thơ, Nguyễn Thúy Quỳnh đã khéo léo gợi nhớ về hình ảnh quê hương với những kỷ niệm ngọt ngào. Những hình ảnh cụ thể như cánh đồng xanh, dòng sông trong veo hay mái nhà xưa cũ không chỉ là bối cảnh mà còn là biểu tượng cho những gì thân thuộc, gần gũi với tâm hồn mỗi con người. Những hình ảnh này được tác giả miêu tả bằng những câu thơ nhẹ nhàng, giàu cảm xúc, khiến người đọc cảm nhận được sự bình yên và ấm áp của quê hương.

Tiếp theo, tác giả đi sâu vào những kỷ niệm gắn liền với gia đình. Những khoảnh khắc bên bữa cơm sum vầy, tiếng cười đùa của cha mẹ và anh chị em là tài sản tinh thần vô giá mà bất kỳ ai cũng muốn gìn giữ. Qua đó, tác giả không chỉ tôn vinh giá trị của gia đình mà còn nhấn mạnh tầm quan trọng của những mối quan hệ tình cảm trong việc hình thành nên nhân cách và bản sắc của mỗi người. Đây cũng là một thông điệp sâu sắc về việc trân trọng các mối quan hệ gia đình, dù cuộc sống có bận rộn và hối hả đến đâu.

Bài thơ còn thể hiện những trăn trở, suy tư của tác giả về cuộc sống hiện đại. Nguyễn Thúy Quỳnh không ngần ngại chỉ ra rằng, trong dòng chảy của thời gian, con người có thể dễ dàng lãng quên những giá trị căn bản của cuộc sống. Những lo toan, bộn bề trong cuộc sống thường nhật có thể khiến chúng ta xa rời những điều giản dị và quý giá. Tác giả khuyến khích người đọc nên dừng lại một chút để nhìn nhận và cảm nhận những điều xung quanh mình, để không bỏ lỡ những khoảnh khắc đáng quý trong cuộc sống.

Ngôn ngữ thơ của Nguyễn Thúy Quỳnh rất giàu hình ảnh và âm điệu. Các biện pháp tu từ như nhân hóa, so sánh được sử dụng linh hoạt, tạo nên những câu thơ vừa gần gũi vừa sâu sắc. Điều này không chỉ giúp bài thơ dễ nhớ, dễ cảm mà còn làm nổi bật lên tâm trạng và cảm xúc của tác giả. Từ ngữ được chọn lọc kỹ càng, mang đậm sắc thái tình cảm, thể hiện rõ nét tâm hồn nhạy cảm và sâu sắc của người viết.

Cuối cùng, "Thơ về nhà mình" không chỉ là một bài thơ về quê hương mà còn là một lời nhắc nhở về việc giữ gìn những giá trị truyền thống và tình cảm gia đình trong bối cảnh xã hội hiện đại. Qua từng câu thơ, Nguyễn Thúy Quỳnh gửi gắm thông điệp rằng, dù cuộc sống có thay đổi thế nào, những gì thuộc về quê hương, gia đình vẫn luôn là nguồn cội, là nơi chúng ta tìm về để tìm kiếm sự bình yên và hạnh phúc.

19 tháng 1

tận 200 chữ ?


Dữ vậy trời

16 tháng 1

tôi chỉ biết làm văn thôi

17 tháng 1

Bác nông dân: Chủ ngữ

đang....siêng năng: vị ngữ

Mọi người, ai chủ ngữ

cũng...vui vẻ: vị ngữ


17 tháng 1

Olm chào em, cảm ơn đánh giá của em về chất lượng bài giảng của Olm, cảm ơn em đã đồng hành cùng Olm trên hành trình tri thức. Chúc em học tập hiệu quả và vui vẻ cùng Olm em nhé!