Phân tích bài thơ “Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác” của Phan Bội Châu.
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Bài làm
Với cảm hứng hào hùng, đậm chất anh hùng ca, bài thơ “Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác” của Phan Bội Châu đã để lại trong long người đọc nhiều dư âm. Hình tượng người tù hiên ngang, bất khuất, đầy chí khí giữa ngục tù tăm tối được tạc lên thật sinh động, đáng ngưỡng mộ.
Hình ảnh của người chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu hiện lên thật hiên ngang, đầy khí phách, không hề run sợ trước ngục tù nhiều bất công, ngang trái. Bài thơ được lấy nhan đề “Vào nhà ngục quảng đông cảm tác” bắt nguồn từ chính hoàn cảnh của người chí sĩ. Đây cũng là dòng cảm xúc chủ đạo làm nên tình thần tráng ca bất diệt của bài thơ
Hai câu thơ đầu cất lên như chính tiếng long của người chí sĩ, ông xem việc ngồi tù rât bình thường:
Vẫn là hào kiệt vẫn phong lưu
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù
Đấng nam nhi sinh ra trên đời này phải làm việc lớn, phải gánh vác trọng trách của đất nước, vì nhân dân mà phấn đấu và cố gắng hết mình. Phan Bội Châu xem việc ở tù như việc đi mỏi chân thì ngồi nghỉ. Tâm thế rất điềm tĩnh, không hề nao núng và lo sợ. Đây chính là nhân cách và phẩm giá của một anh hùng trong thiên hạ.Người chí sỹ vẫn tự nhận thấy mình vẫn « hào kiệt » và « phong lưu », vẫn có thẻ dời non lấp biển, có thể đi khắp năm châu nên chỉ một phút sa cơ như thế này sẽ không bao giờ làm giảm chí lớn. Ở tù không phải là việc gì đó lớn lao, không cần phải bận tâm quá nhiều, coi như sa cơ lỡ bước một lúc, coi như đây là thời gian đẻ nghỉ ngơi, để có thể bàn mưu tính nghiệp lớn sau này. Hai câu thơ hoàn toàn đối lập nhau nhưng lại hỗ trợ nhau làm nổi bật hình ảnh người chí sỹ yêu nước có tâm thế vững vàng.
Hai câu tiếp theo, Phan Bội Châu nhìn lại cuộc đời mình ở hiện tại và ở quá khứ với một tư thế bình tĩnh :
Đã khách không nhà trong bốn biển
Lại người có tội giữa năm châu
Mặc dù ở tù nhưng người chí sĩ vẫn luôn hướng về đất nước đang chịu cảnh nô lệ, lầm than. Ông ngẫm cảnh đời mình phiêu bạt năm châu bốn biển và ngẫm cảnh đất nước chìm trong máu và nước mắt. Giữa đất trời rộng lớn, chẳng có một nói nào gọi là nhà, chẳng có một nơi nào mà người chí sỹ có thể nghỉ một giây, một lát. Sự cô đơn, lạc lõng trong con đường cứu nước cứu dân. Bế tắc rơi vào bế tắc khi thân mang trọng tội. Hai từ « đã » và « lại » được đặt ở đầu câu đã như nhấn mạnh và cứa sâu hơn nữa nỗi lòng của người chí sĩ. Đã nước mất nhà tan lại còn mang tội trong người. Sự xót xa, niềm nhớ thương về đất nước cứ cuộn cuộn chảy trong trái tim của người anh hùng.
Tiếp nối giọng điều trầm lắng, da diết ở hai câu thơ trên, mạch cảm xúc bỗng nhiên chuyển đỏi đột ngột ở hai câu tiếp theo :
Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế
Mở miệng cười tan cuộc oán thù
Hai câu thơ cất lên từ chính trái tim của Phan Bội Châu chính là lý tưởng, là lẽ sống, là con đường mà ông đã lựa chọn để cứu dân cứu nước. Tác giả dùng từ « bủa tay » khẳng định chắc nịch và mạnh mẽ lý tưởng ấy. Ông muốn ôm lấy dân lấy nước, muốn có thể dùng chút sức lực của mình để mang lại hạnh phúc cho nhân dân. TRong nhân gian, thế sự đổi thay, kẻ thù đã gây nên bao nỗi đau mát mát và chính cuộc đời Phan Bội Châu cũng phải chứng kiến nhiều đau thương nhưng ông vẫn luôn lạc quan và kiên cường. Đây chính là tinh thần đáng ngưỡng mộ, đáng học hỏi của Phan Bội Châu.
Dẫu mát mát và gian nan còn nhiều nhưng ý chí và quyết tâm của người chí sĩ yêu nước vẫn còn vang vọng cùng non sông, đất nước. Đúc kết ở hai câu thơ cuối chính là hoài bão lớn lao của ông :
Thân này hãy còn, còn sợ nghiệp
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu
Câu thơ như một lời thề sắt son, như một lời tuyên ngôn của một người đang chịu cảnh lao tù tăm tối. Nhưng dường như chốn ngục tù ấy không thể giam cầm nổi một con người, một tấm lòng trung đối với đất nước. Ông khẳng định rằng chỉ còn mình đang sống thì sự nghiệp cứu đất nước sẽ vần còn đó. Ông sẽ dốc hết sức lực của mình để hoàn thành sự nghiệp đó. Những nguy hiểm, gian lao đối với Phan Bội Châu không là vấn đề gì. Tinh thần bất khuất, khảng khái, không sợ hiểm nguy ấy của Phan Bội Châu khiến người đọc cảm phục trước một tấm lòng trung cao thượng.
Bài thơ " Vào nhà ngục quảng đông cảm tác " khiến cho người đọc ngưỡng mộ, khuất phục trước một hình ảnh Phan Bội Châu kiên cường bất khuất. Đất nước chúng ta có được hòa bình như hôm nay chính là nhờ công sức của những người như Phan Bội Châu.
Chỉ có một ý chí kiên định, một bản lĩnh vững vàng thì mới dám coi thường gian khổ nơi chốn tù đày, coi ở tù như một chuyện bình thường, là chốn trú ngụ khi đường đời mệt mỏi. Từ suy nghĩ ấy đã toát lên tư thế của người chiến sĩ cách mạng, họ không bị phụ thuộc mà vẫn làm chủ bản thân mình, sự nghiệp cách mạng vẫn được họ theo đuổi cho dù có trắc trở, gian truân. Coi những thử thách của nhà tù là cơ hội cho người chiến sĩ rèn luyện bản thân, biến nhà tù thành nơi học tập, thể hiện khí phách của người làm trai:
Làm trai đứng giữa đắt Côn Lôn
Lừng lẫy làm cho lở núi non.
Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
Người tù thể hiện tư thế oai hùng, hiên ngang. Hành động đập đá biểu hiện sức mạnh và khí thế của con người. Đó là hình ảnh biểu tượng cho việc phá tan xiềng xích nô lệ của kẻ thù, thể hiện ý chí quyết tâm vì độc lập tự do của đất nước.
Chí khí lớn lao, hành động dũng mãnh nên không ngại gì khó khăn, không kể đến tấm thân phong trần. Dù có bị vùi dập chốn lao tù họ vẫn một lòng kiên trung với lí tưởng cách mạng:
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng càng bền dạ sắt son.
Khí phách hào hùng, tư thế hiên ngang và ý chí kiên định của hai nhà cách mạng họ Phan xứng đáng tiêu biểu cho hình tượng người chiến sĩ cách mạng đầu thế kỉ XX. Yêu nước, bất khuất khi còn được tự do là điều thường gặp nhưng khi rơi vào tay giặc vẫn thể hiện bản chất ấy thì thật đáng khâm phục và tự hào. Truyền thống dân tộc ta đã góp phần tôi luyện thêm tinh thần sắt đá không chỉ của hai nhà thơ họ Phan mà còn biết bao nhiêu người khác nữa.
Những tác phẩm của họ đã thể hiện tinh thần yêu nước sâu sắc, ý chí đấu tranh để giải phóng dân tộc, phát triển đất nước. Tác phẩm của họ còn khắc họa hình tượng người chiến sĩ yêu nước trong hoàn cảnh tù đày gian khổ nhưng vẫn hiên ngang, giữ vững ý chí kiên định với khí phách hào hùng. Tiêu biểu trong số đó là bài thơ ‘Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác” của Phan Bội Châu và bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” của Phan Châu Trinh.
Hai tác phẩm trên đã khắc họa rõ nét hình ảnh người chiến sĩ dù lâm vào cảnh tù đày vẫn giữ tư thế hiên ngang, giữ vững khí phách của người chiến sĩ cách mạng, làm nên một phong thái ung dung giữa muôn trùng khó khăn của cuộc sống. Giọng thơ trong hai bài thơ này thể hiện sự coi thường khó khăn gian khổ pha lẫn chút tự hào:
Vẫn là hào kiệt vẫn phong lưu
Chạy mỏi chân thì hẵng ở tù.
Chỉ có một ý chí kiên định, một bản lĩnh vững vàng thì mới dám coi thường gian khổ nơi chốn tù đày, coi ở tù như một chuyện bình thường, là chốn trú ngụ khi đường đời mệt mỏi. Từ suy nghĩ ấy đã toát lên tư thế của người chiến sĩ cách mạng, họ không bị phụ thuộc mà vẫn làm chủ bản thân mình, sự nghiệp cách mạng vẫn được họ theo đuổi cho dù có trắc trở, gian truân. Coi những thử thách của nhà tù là cơ hội cho người chiến sĩ rèn luyện bản thân, biến nhà tù thành nơi học tập, thể hiện khí phách của người làm trai:
Làm trai đứng giữa đắt Côn Lôn
Lừng lẫy làm cho lở núi non.
Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
Người tù thể hiện tư thế oai hùng, hiên ngang. Hành động đập đá biểu hiện sức mạnh và khí thế của con người. Đó là hình ảnh biểu tượng cho việc phá tan xiềng xích nô lệ của kẻ thù, thể hiện ý chí quyết tâm vì độc lập tự do của đất nước.
Chí khí lớn lao, hành động dũng mãnh nên không ngại gì khó khăn, không kể đến tấm thân phong trần. Dù có bị vùi dập chốn lao tù họ vẫn một lòng kiên trung với lí tưởng cách mạng:
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng càng bền dạ sắt son.
Khí phách hào hùng, tư thế hiên ngang và ý chí kiên định của hai nhà cách mạng họ Phan xứng đáng tiêu biểu cho hình tượng người chiến sĩ cách mạng đầu thế kỉ XX. Yêu nước, bất khuất khi còn được tự do là điều thường gặp nhưng khi rơi vào tay giặc vẫn thể hiện bản chất ấy thì thật đáng khâm phục và tự hào. Truyền thống dân tộc ta đã góp phần tôi luyện thêm tinh thần sắt đá không chỉ của hai nhà thơ họ Phan mà còn biết bao nhiêu người khác nữa.
Gợi ý:
- Hai bài thơ đều nói về chí làm trai, thể hiện khẩu khí của những bậc anh hùng hào kiệt khi sa cơ, lỡ bước rơi vào vòng tù ngục.
- Họ là những người yêu nước sâu sắc, hi sinh tất cả vì sự nghiệp cứu nước. Hình tượng người chí sĩ hiện lên thật hào hùng, khí phách ngang tàng, lẫm liệt ngay cả trong thử thách, gian nan có thể đe dọa đến tính mạng. Coi thường những thử thách, gian nan trước mắt và lạc quan tin tưởng vào tương lai phía trước.
- Họ là những người yêu nước sâu sắc, hi sinh tất cả vì sự nghiệp cứu nước, không
- Có khí phách hiên ngang, lẫm liệt, có ý chí dời non lấp biển.
=> Họ là những biểu tượng đẹp, là niềm tự hào của các thế hệ của dân tộc. Đó là sự kết tinh vẻ đẹp anh hùng và lãng mạn của các nhà nho đầu thế kỉ XX.
Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác và Đập đá ở Côn Lôn là hai tác phẩm cùng ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt: hoàn cảnh lao tù nghiệt ngã. Giống nhau về hoàn cảnh sáng tác, lại là con đẻ tinh thần của hai nhà chí sĩ cách mạng lớn của dân tộc nên hai áng văn chương này cùng khắc hoạ một chân dung: chân dung người anh hùng với khí phách ngang tàng, lẫm liệt, dù đã sa vào chốn tù ngục hiểm nghèo vẫn giữ vững ý chí chiến đấu sắt son.Cả hai bài thơ đều khép lại ở tư thế của con người đứng cao hơn cái chết, với một ý chí sắt gang, đầy khí phách. Cảm ơn hai nhà thơ đã đem đến cho ta những cảm nhận đẹp về người anh hùng – người chiến sĩ cách mạng của dân tộc ta đầu thế kỷ XX.
- Các chi tiết miêu tả ngôi nhà của cụ Phan Bội Châu:
+ “chiếc cổng sơ sài bằng hai trụ gỗ, trên đóng ngang một tấm bảng để một dòng chữ đen: Nhà đọc sách Phan Bội Châu”
+ “Chiếc cổng dựng ngay giữa một hàng rào cây, và luôn luôn mở rộng”
+ “...sân hẹp…thềm nhà tô xi măng”
+ “Nhà có ba gian rộng rãi, để trống”
- Chi tiết miêu tả tâm trạng của hai chàng học sinh Tuấn, Quỳnh lúc mới bước vào ngôi nhà:
+ “không do dự… đi rón rén, giữ lễ phép”
+ “Tuấn hồi hộp tưởng sắp sửa được trông thấy cụ Phan”
Tham khảo ạ! ( Nguồn: H_o_c_24)
- Qua hai bài thơ "Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác " và "Đập đá ở Côn Lôn" em hiểu được Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh đều là những con người có ý chí kiên cường, sức chịu đựng dẻo dai, có thái độ ngang tàng, ngoan cường, khí phách hiên ngang, tinh thần lạc quan, bất khuất, phong thái ung dung, đường hoàng, quyết tâm sắt đá của người tù cách mạng.
- Bài học em rút ra được từ hai bài thơ đó: Sống có lí tưởng sống cao đẹp, có tinh thần yêu nước và xả thân vì đất nước, biết cống hiến hết mình, không sống vì bản thân, có niềm lạc quan và sự tin tưởng vào tương lai tươi sáng...
Văn bản | Đề tài
| Câu chuyện | Sự kiện | Nhân vật |
Ngôi nhà tranh của cụ Phan Bội Châu ở Bến Ngự | Câu chuyện về “chứng tích thời đại” là căn nhà tranh của cụ Phan Bội Châu ở Bến Ngự và vẻ đẹp con người của cụ Phan Bội Châu. | Quỳnh và Tuấn đã có dịp tới thăm nhà cụ Phan Bội Châu, được tận mắt trông thấy cụ, được cụ trò chuyện, hỏi han, chỉ dạy về tinh thần yêu nước. | Tuấn và Quỳnh đến thăm ngôi nhà của cụ Phan Bội Châu ở Bến Ngự, thành phố Huế, vào năm 1927 | - Tuấn - Quỳnh - Cụ Phan Bội Châu. |
Tôi đã học tập như thế nào? | Sự quan trọng của việc tự học và đọc sách. | Pê-xcốp hồi tưởng về quá khứ nghịch ngợm, bồng bột khi còn nhỏ của mình, sau đó trở về với thực tại, kể cho người đọc về động cơ khiến bản thân mình thay đổi tốt hơn từng ngày: đó là nhờ vào việc tự học và tự đọc sách. | - Nhân vật Pê-xcốp hồi tưởng về kí ức đi học của mình. - Nhân vật Pê-xcốp khi trưởng thành, nhìn nhận lại bản thân mình và chia sẻ với người đọc suy nghĩ của mình | - Nhân vật Pê – xcốp. - Đức giám mục Cri-xan-phơ |
Xà bông “con vịt” | Tinh thần yêu nước, yêu quê hương, luôn muốn đất nước và cuộc sống trở nên tốt đẹp, phát triển hơn của nhân dân Nam Kỳ. | Ông Cai Tuất cùng với một số nhân sĩ yêu nước khác đã mở một xưởng sản xuất xà bông hiệu là “Con Vịt” để người Việt có thể dùng hàng Việt. Nhưng niềm vui chưa được bao lâu thì có người chỉ điểm của Pháp đã khiến cho những cơ sở sản xuất như ông Tuất bị đàn áp, không kinh doanh nổi. | - Cai Tuất trả lại chức vụ đang làm của mình, quyết định cùng với một số nhân sĩ trí thức cùng nhau mở một cơ sở sản xuất xà bông hiệu “Con Vịt”. - Ông Tuất bắt đầu mở xưởng sản xuất kinh doanh. - Ông cùng với chủ nhà máy Dương cùng trò chuyện về cuộc vận động Minh Tân. Cả hai ông đều có mong muốn canh tân lại đất nước. - Những sản phẩm đầu tiên của hãng xà bông của ông Tuất đã ra lò. - Trần Bá Thọ chính là chỉ điểm cho bọn Pháp, nên sau đó chúng đã đàn áp và thu lại tất cả những cơ sở sản xuất xà bông của hội Minh Tân. - Trước khi bọn thực dân Pháp đến, ông Tuất đã đốt xưởng sản xuất của mình. | - Cai Tuất - Trần Chánh Chiếu |
Bài thơ là phút lắng lòng của người chiến sĩ trên chặng đường hành quân mệt mỏi. Lúc dừng chân bên thôn xóm yên bình, vẳng nghe tiếng gà nhảy ổ quen thuộc của làng quê, người chiến sĩ để lòng mình cuốn vào âm thanh ấy và trải ra mênh mông theo sức lan tỏa của nó. Mỗi lần động từ nghe được lặp lại, trường lan tỏa của âm thanh tiếng gà mỗi lúc một rõ nét nhưng đó không phải là sự mở ra theo chiều rộng không gian mà là sự chuyển động theo chiều sâu của cảm xúc. Đầu tiên là sự thay đổi của ngoại cảnh: Nghe xao động nắng trưa, sau đó là sự xâm lấn vào cảm giác: Nghe bàn chân đỡ mỏi và cuối cùng là sự thấm sâu trong tâm hồn: Nghe gọi về tuổi thơ. Điệp từ nghe cùng biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác đã diễn tả tinh tế diễn biến cảm xúc ấy trong tâm hồn người chiến sĩ. Tiếng gà mở đầu bài thơ là một âm thanh của thực tại, vẳng đến từ nơi nào đó trong xóm nhỏ. Nhưng đến cuối khổ, nó đã trở thành âm thanh vọng về từ kí ức, khi người chiến sĩ chìm trong giây phút trầm lắng để thả hồn miên man theo tiếng gọi tuổi thơ.
Theo dòng hồi tưởng ấy, những kỉ niệm ùa về, sống động như đang hiện ra trước mắt. Điệp ngữ tiếng gà trưa mở đầu các đoạn thơ sau, lặp đi lặp lại bốn lần như một điệp khúc, điểm nhịp cho dòng cảm xúc của nhân vật trữ tình. Mỗi lần lặp lại, nó mở ra một ô cửa lung linh làm sáng bừng lên cả khung trời kỉ niệm.Tất cả đều hiện lên trong niềm xúc động của người cháu khi được sống lại trong tình yêu thương và sự chăm chút của bà. Tiếng bà mắng, bàn tay bà khum khum soi trứng, những mảnh kí ức ấy đã thức dậy trong lòng người cháu cả một tuổi thơ sống trong sự tần tảo, chắt chiu, hi sinh quên mình của bà
Bài thơ là phút lắng lòng của người chiến sĩ trên chặng đường hành quân mệt mỏi. Lúc dừng chân bên thôn xóm yên bình, vẳng nghe tiếng gà nhảy ổ quen thuộc của làng quê, người chiến sĩ để lòng mình cuốn vào âm thanh ấy và trải ra mênh mông theo sức lan tỏa của nó. Mỗi lần động từ nghe được lặp lại, trường lan tỏa của âm thanh tiếng gà mỗi lúc một rõ nét nhưng đó không phải là sự mở ra theo chiều rộng không gian mà là sự chuyển động theo chiều sâu của cảm xúc. Đầu tiên là sự thay đổi của ngoại cảnh: Nghe xao động nắng trưa, sau đó là sự xâm lấn vào cảm giác: Nghe bàn chân đỡ mỏi và cuối cùng là sự thấm sâu trong tâm hồn: Nghe gọi về tuổi thơ. Điệp từ nghe cùng biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác đã diễn tả tinh tế diễn biến cảm xúc ấy trong tâm hồn người chiến sĩ. Tiếng gà mở đầu bài thơ là một âm thanh của thực tại, vẳng đến từ nơi nào đó trong xóm nhỏ. Nhưng đến cuối khổ, nó đã trở thành âm thanh vọng về từ kí ức, khi người chiến sĩ chìm trong giây phút trầm lắng để thả hồn miên man theo tiếng gọi tuổi thơ.
Ý 1: trên là Ý 2
Theo dòng hồi tưởng ấy, những kỉ niệm ùa về, sống động như đang hiện ra trước mắt. Điệp ngữ tiếng gà trưa mở đầu các đoạn thơ sau, lặp đi lặp lại bốn lần như một điệp khúc, điểm nhịp cho dòng cảm xúc của nhân vật trữ tình. Mỗi lần lặp lại, nó mở ra một ô cửa lung linh làm sáng bừng lên cả khung trời kỉ niệm.Nhân vật trữ tình đã ngược dòng thời gian để trải nghiệm lại những cảm xúc trẻ thơ trong sáng. Đó là niềm thích thú khi nâng niu ổ trứng hồng ấm áp, là niềm vui say khi ngắm nhìn không chán mắt màu hoa, màu nắng trên mình mỗi chú gà. Từ hình ảnh đàn gà và ổ trứng, người bà xuất hiện trong sự kết nối tự nhiên của mạch cảm xúc. Đây chính là tâm điểm hội tụ mọi kí ức về những năm tháng tuổi thơ của người cháu.Sự kéo dài của chuỗi thời gian “cứ hàng năm hàng năm” cũng là sự lặp lại của bao nỗi lo âu, mong mỏi đã dệt nên đời bà. Bà đổi những lo âu, mong mỏi và chắt chiu ấy chỉ để lấy nụ cười được bộ quần áo mới của đứa cháu thơ. Đó là món quà gói trọn tình cảm yêu thương và hi sinh của bà nên ấm áp và thiêng liêng vô cùng.
Những câu thơ giản dị mà dồn nén bao cảm xúc. Đó không chỉ là niềm vui trong quá khứ của đứa cháu nhỏ được quà mà còn là niềm xúc động rưng rưng trong hiện tại của người chiến sĩ khi thấm thía tình cảm của người bà thân thương.
Tiếng gà, ổ trứng và niềm hạnh phúc mà bà mang lại đã trở thành suối nguồn yêu thương nuôi dưỡng và ghi dấu trong tâm hồn người cháu:
Trong thời gian nước ta bị thực dân Pháp thống trị, nhiều chiến sĩ yêu nước đã bị bọn thực dân giam giữ tù đày. Nhiều tù nhân - chiến sĩ đó đã sáng tác thơ văn ngay trong nhà tù để tỏ chí mình, vừa để động viên lẫn nhau; hình thành nên cả một dòng văn học trong tù, với không ít tác phẩm đầy nhiệt khí quật cường yêu nước hay thấm thìa ý vị trữ tình đa dạng. Một trong những tác phẩm xuất sắc ấy là bài thơ ‘ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác’ của Phan Bội Châu viết trong bối cảnh một cái án tử hình đang treo sấn chờ tác giả của nó ở Đông Dương.
Hình ảnh người tù trong bài hiện lên trong một tư thế hết sức đàng hoàng, đẹp đẽ, tư thế ‘phong lưu’ của một trang ‘hào kiệt’. Với giọng khẳng định nhấn mạnh hai lần chữ ‘vần’, ta không hề thấy một chút tự ti buồn nản ở người tù. Đối với cụ, đây chỉ là một dịp nghỉ ngơi sau khi đã ‘chạy mỏi chân’ vì bôn ba trên đường cứu nước, cảnh ngục tù, án tử hình... không hề có một tác động tiêu cực nào đối với Phan Bội Châu. Trái lại, hoàn cảnh gian nan đe doạ ấy hình như chỉ càng kích thích khí phách quật cường, bản lĩnh son sắt của nhà chí sĩ yêu nước này.
Tuy nhiên, cụ không phải lên gân, giả bộ để tự an ủi mình nguôi khuây nạn tù đày. Cụ vẫn nhìn thẳng vào thực tế khắc nghiệt, không hề có ý xoa dịu cảnh ngộ gay go mà bản thân đang phải chịu đựng. Cụ nhận rõ tình huống gian nan cao độ khi ấy của thân phận mình - một người đang bị thực dân săn lùng ráo riết, buộc phải xa quê hương đất nước, nếm trải cuộc đời long đong, căng thẳng suốt bấy lâu:
‘Đã khách không nhà trong bốn biển
Lại người có tội giữa năm châu’.
Trong tình thế và tâm trạng ấy, người ta càng khâm phục ý chí lạc quan, niềm tin không lay chuyển của tác giả vào sự nghiệp cứu nước đầy gian nan thử thách chất chồng. Cụ tự nhủ, dù sao đi nữa, vẫn quyết ‘dang tay ôm chặt’ lấy công cuộc kinh bang tế thế - trị nước, cứu đời. Cụ tín tưởng ‘Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp’ tự hẹn mình còn sống thì còn đấu tranh cho sự nghiệp, nguy hiểm bao nhiêu đó nữa cũng không thể nhụt chí, nản lòng.
Tấm lòng son sắt, tinh thần lạc quan ấy bắt nguồn từ lòng yêu nước mãnh liệt đã hun đúc nên bản lĩnh kiên cường trước sau không hề chùn bước của Phan Bội Châu - nhà yêu nước số một của dân tộc ta hồi đầu thế kỉ này. Bài thơ này thật đáng quý. Nó đã khắc hoạ được một bức chân dung tinh thần rất cao cả, đẹp đẽ của nhà yêu nước lớn đầu thế kỉ. Cùng với ‘Nhật kí trong tù’ của Hồ Chí Minh sau này, những tác phẩm viết trong ngục của Phan Bội Châu là một di sản vô giá của chúng ta. Nó để lại cho đời đời con cháu được chiêm ngưỡng một nhân cách kì diệu: vẫn ngời ngợi một chí lớn hào kiệt, hiên ngang một tư thế phong lưu, sắt son một niềm tin tươi sáng ngay giữa gông cùm tù ngục, trước cái chết đang rình rập bủa vây.
Thế hệ trẻ của chứng ta đang bước vào thế kỉ mới. Hãy ôn lại cho thật thấm nhuần bản lĩnh son sắt ấy của một nhà yêu nước lớn đầu thế kỉ này, coi đấy như một thứ hành trang tinh thần quý báu, một nguồn năng lượng siêu sạch giúp ta trưởng thành, vững vàng hội nhập với thế giới hôm nay.
Đầu thế ki XX, khi các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp xâm lược ở cả ba miền lần lượt thất bại, một bầu không khí đau thương bao trùm trên đất nước ta. Trong văn chương, bên cạnh những bài ca hùng tráng đã xuất hiện những tiếng thở than bi phẫn và bất lực.
Phong trào cần vương do vua Hàm Nghi khởi xướng đã bị dập tắt. Ông vua yêu nước bị chính quyền thực dân bắt đi đày trên một hòn đảo mịt mù giữa đại dương, cách biệt hẳn đất nước và dân tộc. Tuy vậy, chí báo thù phục quốc vẫn âm ỉ nung nấu trong mọi tầng lớp nhân dân. Bước sang đầu thế ki XX, luồng gió mới của tư tưởng dân chủ tư sản từ Âu châu thổi tới, từ Nhật Bản, Trung Hoa tràn sang đã thúc đẩy những người có tâm huyết với sự nghiệp cứu nước lại náo nức khởi sự một cuộc đấu tranh theo khuynh hướng mới, với mục đích vừa đánh đuổi kẻ thù xâm lược, vừa tấn công vào giai cấp phong kiến tay sai cam tâm bán nước. Chủ trương của họ là khai thông dân khí, mở mang dân trí, chấn hưng công thương nghiệp, để nước nhà phát triển toàn diện, đạt tới mức văn minh, giàu mạnh. Phương pháp thực hiện có thể khác nhau (có phái chủ trương bạo động, có phái chủ trương ôn hòa) nhưng đều nhằm mục đích cao cả là đem lại độc lập, tự do cho dân tộc. Bởi thế, các khuynh hướng không loại trừ nhau mà hợp nhất thành cao trào đấu tranh cách mạng lan rộng khắp nơi. Thực dân Pháp khủng bố dã man, phong trào tạm lắng, những người lãnh đạo phần lớn phải vào tù hoặc lưu lạc ở nước ngoài.
Một số chí sĩ cách mạng nổi tiếng đầu thế ki XX như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… đều xuất thân là nhà Nho nhưng lại tiếp thu rất nhanh những tư tưởng tiến bộ của thời đại. Trong lao tù của bọn thực dân, họ thường làm thơ để bày tỏ chí khí. Đó là những lời gan ruột, tâm huyết của những người anh hùng cứu nước nên có sức mạnh làm rung động lòng người.
Từ năm 1912, thực dân Pháp đã kết án tử hình vắng mặt nhà chí sĩ Phan Bội Châu. Khi bị bọn quân phiệt tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) bắt giam và biết chúng có ý định trao trả cho Pháp, cụ Phan Bội Châu đã nghĩ rằng mình khó có thể thoát chết. Bởi thế, đầu năm 1914, ngay từ những ngày đầu bị giam vào ngục, cụ đã viết Ngục trung thư; nhằm ghi lại những điều tâm huyết để lại cho đồng bào, đồng chí. Bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác theo lời cụ là làm để tự an ủi mình. Cụ còn kể rằng sau khi làm xong, cụ đã “ngâm nga lớn tiếng rổi cả cười vang động cả bốn vách, hầu như không biết thân mình đang bị nhốt trong ngục”. Nội dung bài thơ như sau:
Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu,
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.
Đă khách không nhà trong bốn biển,
Lại người có tội giữa năm châu.
Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù.
Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu.
Bài thơ mang đậm khẩu khí anh hùng này đã khắc hoạ rõ nét khí phách hiên ngang, bất khuất và hình ảnh tuyệt đẹp của người chiến sĩ cách mạng lúc sa cơ.
Thể thơ thất ngôn bát cú gồm 4 phần: đề, thực, luận, kết, mỗi phần chỉ có hai câu ngắn gọn nhưng lại chứa đựng một nội dung cực kì hàm súc.
Hai câu đề:
Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu,
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.
Một tù nhân mà vẫn tự khẳng định mình là bậc hào kiệt, phong lưu, điều đó thể hiện phong thái đường hoàng, tự tin, vừa ung dung, thanh thản, vừa hiên ngang bất khuất, lại vừa tài hoa tài tử. Người chiến sĩ cách mạng chẳng may rơi vào vòng tù ngục thì cứ coi như người đi đường dài chạy mỏi chân thì nghỉ một chút để lấy sức đi tiếp. Thực chất không phải như vậy. Cụ Phan kể rằng trên đường bị áp giải đến nhà lao, bọn lính đã đối xử với cụ rất tàn nhẫn: nào trói tay, nào xiềng chân. Vào ngục, cụ lại bị giam chung một chỗ với bọn tử tù. Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại. Đúng là như vậy ! Bị giam cầm có nghĩa là bị tước đoạt tự do, bị đày đọa cả về thể xác lẫn tinh thần và cận kề cái chết. Ấy vậy mà người anh hùng vẫn ngẩng cao đầu và cảm thấy mình vẫn hoàn toàn tự do về mặt tinh thần. Xuất phát từ nhận thức đúng đắn ấy nên khi bàn đến sự sống chết, Phan Bội Châu vẫn nói bằng giọng cười cợt như vậy. Đây là lối thơ khẩu khí khá phổ biến trong văn chương dùng để nói lên chí lớn của người xưa.
Hai câu thực:
Đã khách không nhà trong bốn biển,
Lại người có tội giữa năm châu.
Nhà thơ tóm lược về cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Mười năm lưu lạc, khi Nhật Bản, khi Trung Quốc, khi Xiêm La (Thái Lan), xa mái ấm gia đình, chịu trăm ngàn cực khổ về vật chất, cay đắng về tinh thần; thêm vào đó là sự hiểm nguy thường xuyên đe doạ vì cụ Phan là đối tượng truy nã đặc biệt của thực dân Pháp và đã bị chúng kết án tử hình vắng mặt. Phan Bội Châu nói như vậy không phải là để than thân mà chỉ nêu lên bi kịch chung của các chí sĩ yêu nước thời bấy giờ.
Cuộc đời đầy sóng gió của cụ Phan gắn liền với tình cảnh nô lệ của đất nước, đồng bào. Giọng điệu trầm thống của hai câu thơ trên phần nào thể hiện được tâm trạng đau đớn, xót xa của bậc anh hùng cứu nước.
Hai câu luận:
Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù.
Đúng là khẩu khí của một bậc đại trượng phu. Cho dù gặp hoàn cảnh bi đát đốn mức độ nào thì lí tưởng kinh bang tế thế, lo đời giúp dân của Phan Bội Châu vẫn không thay đổi. Trước sau cụ vẫn một lòng theo đuổi sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc ra khỏi ách thống trị của giặc ngoại xâm. Lí tưởng và mục đích cao cả ấy đã giúp cụ giữ vững khí tiết cương cường, tư thế hiên ngang, bất khuất trước kẻ thù.
Lối nói khoa trương này thường được dùng nhiều trong thơ ca lãng mạn, nhất là trong anh hùng ca. Nó nâng cao tầm vóc và năng lực của con người lên đến mức siêu nhiên, thần thánh.
Từ thuở thanh niên, Phan Văn San (tên thật của Phan Bội Châu) đã nuôi chí lớn chờ thời cơ cứu nước:
Phùng xuân hội, may ra, ừ cũng dễ,
Nắm địa cầu vừa một ti con con.
Đạp toang hai cánh càn khôn,
Đem xuân vẽ lại cho non nước nhà…
(Chơi xuân)
Gần như suốt cuộc đời, cụ Phan đã chấp nhận gian khổ, hi sinh để theo đuổi và thực hiện lí tưởng thiêng liệng ấy.
Hai câu kết:
Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu.
Ý chí gang thép và niềm tin to lớn của người anh hùng quả là không gì lay chuyển nổi. Con người ấy còn sống nghĩa là còn tiếp tục chiến đấu, còn tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng, vì thế mà bất chấp mọi thử thách gian nan.
Từ còn lặp lại hai lần liền nhau ở giữa câu thơ vừa có tác dụng ngắt nhịp, vừa nhấn mạnh ý thơ. Hai câu kết như một tuyên ngôn dõng dạc, dứt khoát, có sức truyền cảm mạnh mẽ, lớn lao, lay động hồn người.
Phan Bội Châu được nhân dân tôn vinh là một trong những nhà chí sĩ yêu nước và cách mạng nổi tiếng đầu thế ki XX. Tên tuổi và gương sáng của cụ ảnh hưởng rộng rãi tới phong trào giải phóng dân tộc không chi trong thời kì đó mà mãi mãi về sau.
Người chiến sĩ cách mạng lão thành họ Phan dù trải qua bao giông bão cuộc đời vẫn giữ vững khí tiết của một bậc chính nhân quân tử: Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất. (Giàu sang không thể làm cho mê đắm, nghèo khó không thể làm cho thay lòng đổi dạ, uy vũ không thể làm cho khuất phục). Tuy xuất thân từ cửa Khổng sân Trình nhưng cụ đã vượt khỏi khuôn khổ cứng nhắc của giáo lí thánh hiền để tiếp cận tư tưởng dân chủ, dân quyền mới. Trước cảnh đồng bào đang chịu cảnh lầm than, nô lệ, cụ đau đớn, xót xa và nuôi khát vọng xoay chuyển càn khôn, đánh đuổi quân thù, đem xuân vẽ lại cho non nước nhà. Với lí tưởng cao đẹp đó, cụ lao vào cuộc đấu tranh, bất chấp mọi gian khổ, hi sinh, thậm chí đối diện với cái chết, cụ cũng không sờn lòng, nản chí. Bởi thế nên đối với cụ, dẫu có sa cơ, rơi vào vòng tù ngục thì chẳng qua cũng chi là dừng bước tạm nghi trên con đường đấu tranh lâu dài và gian khổ.
Ở bài thơ này, các biện pháp nghệ thuật thường thấy trong thơ Đường như nghệ thuật đối: bốn biển – năm châu, bủa tay – mở miệng, bồ kinh tế – cuộc oản thù… được sử dụng hợp lí đã làm cho tầm vóc của nhân vật trữ tình trở nôn lớn lao, kì Vĩ, phù hợp với giọng điệu hào hùng. Cảm xúc chân thành của tác giả đã tạo nên sức sống bất diệt cho bài thơ.