Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Đáp án C
Từ năm 1972, trong khi đang tiến hành chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh ở miền Nam, Mĩ đã mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai
Đáp án A
Ngày 7-2-1965, Mĩ chính thức tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất trong khi đang thực hiện chiến lược chiến tranh đặc biệt ở miền Nam Việt Nam (1961-1965)
Âm mưu
- Âm mưu cơ bản là “Dùng người Việt đánh người Việt”.
Thủ đoạn
- Đề ra kế hoạch Staley – Taylor, bình định miền Nam trong 18 tháng.
+ Tăng viện trợ quân sự cho Diệm, tăng cường cố vấn Mỹ và lực lượng quân đội Sài Gòn.
+ Tiến hành dồn dân lập “Ấp chiến lược” - xương sống của “Chiến tranh đặc biệt”, trang bị hiện đại, sử dụng phổ biến các chiến thuật mới như “trực thăng vận” và “thiết xa vận”.
+ Thành lập Bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở miền Nam (MACV).
- Mở nhiều cuộc hành quân càn quét nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng, tiến hành nhiều hoạt động phá hoại miền Bắc, phong tỏa biên giới, vùng biển nhằm ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam.
Về điểm giống nhau.
+ Đều là loại hình chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới, nằm trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của Mĩ những năm sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
+ Đều chung mục tiêu là chống phá cách mạng miền Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mĩ.
+ Đều có sự tham gia và chi phối của tiền của, vũ khí và đô la Mĩ.
+ Đều bị thất bại.
Khác nhau:
Về lực lượng tham chiến chính .
+ Chiến tranh đặc biệt: lực lượng chủ lực là quân Ngụy Sài Gòn.
+ Chiến tranh cục bộ: Lực lượng chiến đấu chính là quân viễn chinh Mĩ.
+ Việt Nam hóa chiến tranh: Chủ yếu là quân Ngụy, quân Mĩ rút dần về nước.
Về địa bàn diễn ra.
+ Chiến tranh đặc biệt: miền Nam.
+ Chiến tranh cục bộ: vừa bình định Miền Nam vừa mở rộng chiến tranh phá hoại miền bắc.
+ Việt Nam hóa chiến tranh: Mở rộng chiến tranh ra cả nước vừa mở rộng sang cả khu vực Đông Dương.
Về thủ đoạn cơ bản.
+ Chiến tranh đặc biệt: Ấp chiến lược là cơ bản và được nâng lên thành quốc sách.
+ Chiến tranh cục bộ: Thủ đoạn cơ bản là chiến lược hai gọng kìm tìm diệt và bình định.
+ Việt Nam hóa chiến tranh: Dùng người Việt trị người Việt, dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương.
Về tính chất ác liệt:
Chiến tranh cục bộ là hình thức chiến tranh xâm lược cao nhất của chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới ở miền Nam Việt Nam, là chiến dịch duy nhất mà Mĩ trực tiếp huy động quân viễn chinh sang tham chiến ở chiến trường miền Nam, tăng cường bắn phá miền bắc. Thất bại của chiến lược này đã mở ra cơ hội để quân ta bắt đầu đi đến đàm phán ở Pa-ri.
Sau chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh, Mĩ buộc phải kí Hiệp định Pa-ri và rút quân về nước.
- Giống nhau : đều là chiến lược chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới nằm trong chiến lược toàn cầu "phản ứng linh hoạt" của Mĩ.
- Khác nhau :
+ Chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" được tiến hành bằng quân đội Sài Gòn nhằm chống lại các lực lượng cách mạna và nhân dân ta. Tuy vậy, đây không phải là cuộc nội chiến, mà là cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới của Mĩ, bởi lẽ Mĩ đề ra kế hoạch, cung cấp đôla, vũ khí, phương tiện chiến tranh, chỉ huy bằng hệ thống "cố vấn" nhằm chống lại lực lượng cách mạng và nhân dân ta, phục vụ cho lợi ích của Mĩ. Đây là biểu hiện tính chất "đặc biệt" của loại hình chiến tranh xãm lược thực dân mới và việc thực hiện âm mưu "dùng người Việt đánh người Việt". Với sự hỗ trợ chiến đấu và chỉ huy bằng hệ thống cố vấn của Mĩ, quân đội Sài Gòn mở những cuộc hành quân càn quét tiêu diệt lực lượng cách mạng, tiến hành hoạt động dồn dân, lập "ấp chiến lược', đẩy lực lượng cách mạng ra khỏi các ấp, tách dân khỏi cách mạng, tiến tới nắm dân, "bình định" miền Nam.
+ Chiến lược "Chiến tranh cục bộ" được tiến hành bằng quân Mĩ, quân đồng minh của Mĩ (Hàn Quốc, Thái Lan, Phi-lip-pin, Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân) và quân đội Sài Gòn. Trong đó quân Mĩ giữ vai trò quan trọng, không ngừng tăng lên về số lượng (lúc cao nhất là gần 1,5 triệu quân) và trang bị, nhằm chống lại các lực lượng cách mạng và nhân dân ta. Tuy quân Mĩ trực tiếp tham chiến, chiến lược "Chiến tranh cục bộ" ở miền Nam vẫn là chiến lược chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới vì quân đội Sài Gòn vẫn giữ vai trò quan trọng. Mĩ nhảy vào cuộc chiến nhằm cứu quân đội Sài Gòn khỏi bị sụp đổ, tiếp tục thực hiện những mục tiêu của chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam. Dựa vào ưu thế quân sự, Mĩ liên tiếp mở các cuộc hành quân "tìm diệt" và "bình định' vào các vùng giải phóng của ta. Đồng thời mở rộng chiến tranh bằng không quân, hải quân phá hoại miền Bắc.
Cuộc chiến tranh đơn phương
Hoàn cảnh
Vào trong ngày 7/11/1954, Mỹ cử tướng Cô-lin sang làm đại sứ ở miền Nam của Việt Nam với âm mưu biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới. Để làm bàn đạp tiến công miền Bắc và ngăn chặn làn sóng cách mệnh ở Đông Nam Á.
Dựa vào Mỹ, Ngô Đình Diệm nhanh chóng dựng lên một chính quyền sở tại độc tài ở miền Nam và ra sức chống phá cách mệnh. Giữa năm 1954, Ngô Đình Diệm lập ra đảng Cần lao nhân vị làm đảng cầm quyền. Và vào ở thời gian cuối năm 1954, thành lập “trào lưu cách mệnh quốc gia” và đưa ra mục tiêu “chống cộng, đả thực, bài phong”.
Âm mưu
Cuộc chiến tranh đơn phương là một trong các chiến lược cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, được thực hiện với âm mưu biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới. Mục đích để làm bàn đạp tiến công miền Bắc và ngăn chặn làn sóng cách mệnh Xã Hội Chủ Nghĩa ở Đông Nam Á.
Thủ đoạn
Ngô Đình Diệm ra sắc lệnh “đặt cộng sản ngoài vòng pháp luật”. Và vào tháng 5/1959, ra luật đạo 10/59, lê máy chém khắp miền Nam để giết hại những người dân vô tội.
Tổ chức chính quyền Diệm thực hiện lớp học cải cách điền địa nhằm mục đích lấy lại ruộng đất mà cách mệnh đã giao cho nhân dân. Và lập ra các khu dinh điền, khu trù mật để kìm kẹp nhân dân.
Cuộc chiến tranh đơn phương được thực hiện nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới
Cuộc chiến tranh đặc biệt quan trọng
Hoàn cảnh
Vào ở thời gian cuối năm 1960, sau trào lưu “Đồng khởi” ở miền Nam, Mỹ đã đề ra và thực hiện một trong các chiến lược cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Đó là chiến lược “Cuộc chiến tranh đặc biệt quan trọng” ở miền Nam Việt Nam. Trong thời gian đó thì trên thế giới, trào lưu giải phóng dân tộc bản địa dâng lên mạnh mẽ, rình rập đe dọa đến khối hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc.
Âm mưu
Đây là hình thức cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới. Được tiến hành bằng quân đội tay sai, dưới sự chỉ huy của Mỹ. Dựa vào vũ khí, phương tiện cuộc chiến tranh của Mỹ, đế nhằm chống lại trào lưu cách mệnh của nhân dân ta.
Tổng hợp thông tin về các chiến lược chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam
/Blog /Tổng hợp thông tin về các chiến lược chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam- Tháng Tư 6, 2020
- admin
Từ thời điểm năm 1954 đến năm 1975, các chiến lược chiến của Mỹ ở Việt Nam liên tiếp được thực hiện. Những chiến lược này được diễn ra trong hoàn cảnh nào? Đặc điểm của không ít chiến lược cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam? Cùng nội dung bài viết tại đây của AiBenNhayHon.Com tìm hiểu các chiến lược cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam.
Danh Mục Nội Dung
CÁC KẾ HOẠCH CHIẾN TRANH CỦA PHÁP VÀ CHIẾN LƯỢC CHIẾN TRANH CỦA MĨ.
Xem Thêm Khái niệm Đáo hạn là gì? Những điều cần biết về Đáo hạn ngân hàng
Cuộc chiến tranh đơn phương
Hoàn cảnh
Vào trong ngày 7/11/1954, Mỹ cử tướng Cô-lin sang làm đại sứ ở miền Nam của Việt Nam với âm mưu biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới. Để làm bàn đạp tiến công miền Bắc và ngăn chặn làn sóng cách mệnh ở Đông Nam Á.
Dựa vào Mỹ, Ngô Đình Diệm nhanh chóng dựng lên một chính quyền sở tại độc tài ở miền Nam và ra sức chống phá cách mệnh. Giữa năm 1954, Ngô Đình Diệm lập ra đảng Cần lao nhân vị làm đảng cầm quyền. Và vào ở thời gian cuối năm 1954, thành lập “trào lưu cách mệnh quốc gia” và đưa ra mục tiêu “chống cộng, đả thực, bài phong”.
Âm mưu
Cuộc chiến tranh đơn phương là một trong các chiến lược cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, được thực hiện với âm mưu biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới. Mục đích để làm bàn đạp tiến công miền Bắc và ngăn chặn làn sóng cách mệnh Xã Hội Chủ Nghĩa ở Đông Nam Á.
Thủ đoạn
Ngô Đình Diệm ra sắc lệnh “đặt cộng sản ngoài vòng pháp luật”. Và vào tháng 5/1959, ra luật đạo 10/59, lê máy chém khắp miền Nam để giết hại những người dân vô tội.
Tổ chức chính quyền Diệm thực hiện lớp học cải cách điền địa nhằm mục đích lấy lại ruộng đất mà cách mệnh đã giao cho nhân dân. Và lập ra các khu dinh điền, khu trù mật để kìm kẹp nhân dân.
Cuộc chiến tranh đơn phương được thực hiện nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới
Cuộc chiến tranh đặc biệt quan trọng
Hoàn cảnh
Vào ở thời gian cuối năm 1960, sau trào lưu “Đồng khởi” ở miền Nam, Mỹ đã đề ra và thực hiện một trong các chiến lược cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Đó là chiến lược “Cuộc chiến tranh đặc biệt quan trọng” ở miền Nam Việt Nam. Trong thời gian đó thì trên thế giới, trào lưu giải phóng dân tộc bản địa dâng lên mạnh mẽ, rình rập đe dọa đến khối hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc.
Âm mưu
Đây là hình thức cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới. Được tiến hành bằng quân đội tay sai, dưới sự chỉ huy của Mỹ. Dựa vào vũ khí, phương tiện cuộc chiến tranh của Mỹ, đế nhằm chống lại trào lưu cách mệnh của nhân dân ta.
Xem Thêm Phân bón hóa học là gì? KHÁM PHÁ các loại phân bón nổi bậtThủ đoạn
- Đề ra kế hoạch bình định miền Nam trong vòng 18 tháng.
- Tăng viện trợ quân sự chiến lược cho Ngô Đình Diệm, tăng cường cố vấn Mỹ và lực lượng quân đội Sài Gòn.
- Tiến hành dồn dân lập “Ấp chiến lược”, sử dụng các chiến thuật mới như “trực thăng vận” và “thiết xa vận”.
- Thành lập Bộ chỉ huy quân sự chiến lược Mỹ tại miền Nam
- Nhiều cuộc hành quân càn quét được mở ra nhằm tiêu diệt lực lượng cách mệnh. Tiến hành hoạt động phá hoại miền Bắc, phong tỏa biên giới và vùng biển. Tất cả để nhằm ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam.
Cuộc chiến tranh cục bộ
Hoàn cảnh
Sau thất bại của chiến lược “Cuộc chiến tranh đặc biệt quan trọng”, Mỹ đã chuyển sang chiến lược “Cuộc chiến tranh cục bộ” ở miền Nam. Các chiến lược cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam này được thành lập để cứu vãn tình hình ở miền Nam. Thời gian từ nửa 1965- 1968.
Âm mưu
“Cuộc chiến tranh cục bộ” là quy mô cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới. Được tiến hành bằng quân đội Mỹ, quân một số nước liên minh và quân đội Sài Gòn. Mục đích để nhằm tạo ra ưu thế về quân sự chiến lược, giành lại thế dữ thế chủ động trên chiến trường.
Nhờ vào một trong những trong các chiến lược cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Mỹ đã nhanh chóng áp hòn đảo về binh lực, hỏa lực quân ta, cố giành thắng lợi để lấy lại quyền dữ thế chủ động trên chiến trường. Chúng đã đẩy quân dân ta về thế phòng ngự và buộc ta phải phân tán lực lượng, rút về biên giới, cho cuộc chiến tranh lụi tàn.
Thủ đoạn
- Liên tục đổ quân viễn chinh Mỹ và các phương tiện cuộc chiến tranh tân tiến, tiến bộ vào miền Nam. Đến năm 1968, số quân viễn chinh Mỹ ở miền Nam đã lên tới hơn 50 vạn.
- Thực hiện tiến hành hai cuộc phản công chiến lược mùa khô (1965 – 1966 và 1966 – 1967) bằng hàng loạt cuộc hành quân “tìm diệt” và “bình định” vào “Đất thánh Việt Cộng”.
- Tiêu huỷ tiềm lực kinh tế tài chính – quốc phòng miền Bắc, để ngăn chặn sự chi viện từ bên phía ngoài vào miền Bắc và từ Bắc vào Nam. Và đồng thời làm lung lay quyết tâm chống Mỹ của nhân dân ta.
- Cuộc chiến tranh cục bộ là quy mô cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới
Việt Nam hoá cuộc chiến tranh
Hoàn cảnh
Vào năm Mậu Thân 1968, cuộc tổng tiến công và nổi dậy của quân dân ta đã làm phá sản chiến lược “ Cuộc chiến tranh cục bộ”. Điều này đã làm chấn động nước Mỹ và thế giới. Và bắt buộc Mỹ phải đưa ra một trong các chiến lược cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam mới để cứu vãn tình hình.
Đầu năm mới 1969, Tổng thống Níchxơn lên nắm quyền đã đề ra chiến lược toàn cầu “Ngăn đe thực tế”. Và tiếp tục trận chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới, thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa cuộc chiến tranh”. Chiến lược đã mở rộng cuộc chiến tranh ra toàn đông dương là “Đông Dương hóa cuộc chiến tranh”.
Âm mưu
Chiến lược được đề ra với mục tiêu dùng người việt nam đánh người việt nam. Và dùng người đông dương đánh người đông dương.
Thủ đoạn
Giai đoạn 1969-1972
- Rút dần quân Mỹ và quân liên minh thoát khỏi cuộc chiến tranh
- Nhằm tăng cường quân đội ngụy TP sài gòn trên chiến trường để “ thay màu da trên xác chết”
- Mở rộng để xâm lược Lào và Campuchia, thực hiện âm mưu “Dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương”.
- Tiến hành thủ đoạn ngoại giao xảo quyệt, tận dụng xích mích giữa Trung – Xô. Thỏa hiệp với Trung Quốc và hòa hoãn với Liên Xô nhằm hạn chế sự giúp đỡ của không ít nước này khi đối chiếu với cuộc kháng chiến của nhân dân ta.
- Các chiến lược cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam nhằm tăng cường đánh phá miền Bắc bằng không quân.
-
Giai đoạn sau hiệp định Pari 1975
- Mỹ rút khỏi chiến trường nhưng vẫn giữ lại 2 vạn cố vấn và viện trợ cho quân ngụy tiếp tục trận chiến tranh, ra sức phá hoại hiệp định pari.
- Tiến hành chiến dịch “tràn ngập lãnh thổ” và mở nhiều cuộc hành quân “lấn chiếm vùng giải phóng của nước ta.
1. Chiến lược “Chiến tranh cục bộ" của Mĩ ở miền Nam
Sau thất bại của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt", Mĩ chuyển sang chiến lược "Chiến tranh cục bộ - được tiến hành bằng lực lượng quân đội Mĩ, quân đồng minh và quân đội Sài Gòn - lúc cao nhất (vào năm 1969) lên gần 1.5 triệu quân.
Dựa vào ưu thế quân sự, với quân số đông, vũ khí hiện đại, hỏa lực mạnh, Mĩ vừa mới vào miền Nam đã cho quân mở ngay cuộc hành quân "tìm diệt" vào căn cứ của quân giải phóng ở Vạn Tường (Quảng Ngãi). Tiếp đó, Mĩ mở liền hai cuộc phản công chiến lược mùa khô: đông - xuân 1965 - 1966 và 1966 -1967 bằng hàng loạt cuộc hành quân "tìm diệt" và "bình định".
2. Chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mĩ
Nhân dân ta vẫn giành được thắng lợi bằng sức mạnh của cả dân tộc, của tiền tuyến và hậu phương cùng với ý chí “quyết chiến quyết thắng giặc Mĩ xâm lược”. Mở đầu là thắng lợi ở Vạn Tường (Quảng Ngãi).
Mờ sáng 18 - 8 -1965, Mĩ huy động 9 000 quân, 105 xe tăng và xe bọc thép, 100 máy bay lên thẳng và 70 máy bay phản lực chiến đấu, 6 tàu chiến, mở cuộc hành quân vào thôn Vạn Tường.
Sau một ngày chiến đấu, một trung đoàn chủ lực của ta cùng với quân du kích và nhân dân địa phương đã đẩy lùi được cuộc hành quân của địch, loại khỏi vòng chiến đấu 900 địch, bắn cháy 22 xe tăng và xe bọc thép, hạ 13 máy bay.
Vạn Tường đã mở đầu cao trào “Tìm Mĩ mà đánh, lùng ngụy mà diệt” trên khắp miền Nam.
Sau trận Vạn Tường, khả năng chiến thắng Mĩ trong chiến lược “Chiến tranh cục bộ" của quân dân ta tiếp tục được chứng minh trong hai mùa khô.
Bước vào mùa khô thứ nhất (đông - xuân 1965 - 1966), với 720 000 quân (trong đó có 220 000 quân Mĩ), địch mở đợt phản công với 5 cuộc hành quân “tìm diệt” lớn nhằm vào hai hướng chiến lược chính ở Đông Nam Bộ và Khu V, với mục tiêu đánh bại chủ lực quân giải phóng.
Bước vào mùa khô thứ hai (đông - xuân 1966 - 1967), với lực lượng được tăng lên hơn 980 000 quân (riêng quân Mĩ và đồng minh chiếm hơn 440 000), Mĩ mở đợt phản công với ba cuộc hành quân lớn “tìm diệt” và "bình định”, lớn nhất là
cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ti đánh vào căn cứ Dương Minh Châu (Bắc Tây Ninh)nhằm tiêu diệt quân chủ lực và cơ quan đầu não của ta. Kết quả sau hai mùa khô, trên toàn miền Nam, quân dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 240 000 tên địch, bắn rơi và phá hủy hơn 2700 máy bay, phá hủy hơn 2 200 xe tăng và xe bọc thép, hơn 3 400 ô tô.
Ở hầu khắp các vùng nông thôn, được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, quần chúng đã đứng lên đấu tranh chống ách kìm kẹp của địch, phá từng mảng “ấp chiến lược”. Trong hầu khắp các thành thị, giai cấp công nhân, các tầng lớp nhân dân lao động khác, học sinh, sinh viên, Phật tử, binh sĩ Sài Gòn... đấu tranh đòi Mĩ rút về nước, đòi tự do dân chủ. Vùng giải phóng được mở rộng, uy túi của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam được nâng cao trên trường quốc tế.
Đến cuối năm 1967, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam đã có cơ quan thường trực ở các nước xã hội chủ nghĩa và ở một số nước khác. Cương lĩnh của Mặt trận được 41 nước, 12 tổ chức quốc tế và 5 tổ chức khu vực lên tiếng ủng hộ.
Giống nhau.
+ Đều là loại hình chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới, nằm trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của Mĩ những năm sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
+ Đều chung mục tiêu là chống phá cách mạng miền Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mĩ.
+ Đều có sự tham gia và chi phối của tiền của, vũ khí và đô la Mĩ.
+ Đều bị thất bại.
Khác nhau:
Về lực lượng tham chiến chính .
+ Chiến tranh đặc biệt: lực lượng chủ lực là quân Ngụy Sài Gòn.
+ Chiến tranh cục bộ: Lực lượng chiến đấu chính là quân viễn chinh Mĩ.
+ Việt Nam hóa chiến tranh: Chủ yếu là quân Ngụy, quân Mĩ rút dần vè nước.
Về địa bàn diễn ra.
+ Chiến tranh đặc biệt: miền Nam.
+ Chiến tranh cục bộ: vưùa bình định Miền Nam vưùa mở rộng chiến tranh phá hoại miền bắc.
+ Việt Nam hóa chiến tranh: Mở rộng chiến tranh ra cả nước vừa mở rộng sang cả khu vực Đông Dương.
Về thủ đoạn cơ bản.
+ Chiến tranh đặc biệt: Ấp chiến lược là cơ bản và được nâng lên thành quốc sách.
+ Chiến tranh cục bộ: Thủ đoạn cơ bản là chiến lược hai gọng kìm tìm diệt và bình định.
+ Việt Nam hoá chiến tranh: Dùng ngưòi Việt trị ngưòi Việt, dùng người Đông Dương đánh ngưòi Đông Dương, rút dần quân Mĩ để gảim xương máu cho ngưòi Mĩ thực hiện âm mưu "thay màu da đổi xác chết".
Về tính chất ác liệt:
Chiến tranh cục bộ là hình thức chiến tranh xâm lược cao nhất của chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới ở miền Nam Việt Nam, là chiến dịch duy nhất mà Mĩ trưục tiếp huy động quân viẽn chinh sang tham chiến ở chiến trường miền Nam, tăng cường bắn phá miền bắc. Thất bại của chiến lược này đã mở ra cơ hội để quân ta bắt đầu đi đến đàm phán ở Pa-ri.
Sau chiến luợc Việt Nam hóa chiến tranh, Mĩ buôc phải kí Hiệp định Pa-ri và rút quân về nước.
Các chiến lược chiến tranh xâm lược của Mĩ tiến hành ở Miền Nam Việt Nam là:
- Chiến tranh đơn phương
- Chiến tranh đặc biệt
- Chiến tranh cục bộ
- Việt Nam hoá chiến tranh