Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Trước hình ảnh Bạch Đằng "Bát ngát sóng kình muôn dặm ”, "thướt tha đuôi trĩ một màu” với "nước trời...”, "phong cảnh ...” "bờ lau...”, "bến lách... ”... “Khách” có tâm trạng vui buồn lẫn lộn, vui vì tự hào trước lịch sử oai hùng của dân tộc nhưng buồn vì tiếc nuối xót thương những anh hùng đã khuất. Đây là một nỗi buồn cao đẹp đầy tính nhân văn. Giọng văn trở nên man mác, bâng khuâng.
Cảm xúc của “khách”:
- Khách vừa có cảm giác vui, buồn, vừa tự hào, nuối tiếc → Có tráng chí bốn phương, yêu nước, tự hào
+ Vui trước cảnh hùng vĩ, thơ mộng núi sông, tự hào vì dòng sông ghi nhiều chiến công hiển hách
- Khách buồn, nuối tiếc: dấu tích oanh liệt ngày xưa trở nên trơ trọi, hoang vu. Dòng thời gian làm lãng quên đi những giá trị lịch sử
- Đoạn thơ chủ yếu ngắt nhịp chẵn, thể hiện điệu nhịp nhàng, trầm lắng, khơi gợi nhiều nỗi suy tư
Trong xã hội ngày nay, kiến thức là một kho tàng vô cùng rộng lớn của loài người, có thể cho là không có biên giới xác định. Với sự đổi mới từng ngày của thế giới, lượng kiến thức dần được mở rộng không ngừng. Trong cái kho tàng vô hạn ấy, ta có thể tìm kiếm, ứng dụng để xây dựng nên một tri thức mới đem lại niềm tự hào, niềm tin cho cả một dân tộc. Chính nhờ những yếu tố đó, một triết gia người Anh – Francis Bacon đã đưa ra một nhận định : “Tri thức là sức mạnh” để bộc lộ suy nghĩ của bản thân ông, và cũng để chứng minh cho nhân loại thấy được, điều ông đang thấy !
Trước hết, chúng ta cần phải hiểu được nội dung vấn đề ở đây là điều gì. Chúng ta đang tìm hiểu về “Tri thức”. Vậy “Tri thức” có nghĩa là gì? Thật đơn giản khi ta chỉ hiểu tri thức là những thông tin được biểu đạt trong sách vở, trong những văn bản thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Nếu như chỉ có hai điều ngắn gọn như vậy, vì sao ta lại không dùng từ “kiến thức” thay cho “Tri thức”? Thưa là vì “Tri thức” còn mang một ý nghĩa sâu xa hơn. Đó là tập hợp nhiều quá trình phức tạp khác nhau, thông qua việc nhận thức, giao tiếp, lý luận,… trong nhiều vấn đề của xã hội. “Tri thức” được xây dựng bằng cả một quá trình rất rất dài mới có thể được biểu đạt dưới dạng văn bản. Ngoài ra đó còn là một quá trình sáng tạo dựa trên những gì đã có một cách hoàn chỉnh hơn. Như vậy, có thể coi Tri thức bao hàm tất cả những gì thuộc về ý thức của xã hội loài người.
Có một vấn đề được đặt ra khi ta định nghĩa “Tri thức” như trên. Vì sao ngài Francis Bacon lại nhắc đến Sức mạnh đối với Tri thức? Liệu rằng hai khái niệm đó có mối quan hệ với nhau? Sức mạnh được hiểu là một dạng năng lực của con người, một dân tộc hay cả một quốc gia, một xã hội loài người. Ngoài ra Sức mạnh còn có thể là năng lượng phát sinh của những máy móc thuộc nhiều ngành khác nhau (còn được gọi là Công suất). Giữa “sức mạnh” và “tri thức” có mối liên hệ chặt chẽ là bởi có tri thức, ta mới có thể sáng tạo ra những vật dụng, máy móc và để chúng phục vụ ta trong đời sống hằng ngày. Đó cũng có thể là việc ứng dụng những chiến lược sách vở để chiến thắng trong một cuộc chơi thực tế… Vì vậy, quả thật không sai khi nhận định “Tri thức là sức mạnh”
Trong chúng ta, không ai mà không biết đến tên những nhà bác học như Pythagore, Thales, Newton, Einstein, Edison,… Những nhà bác học ấy đều sử dụng vốn kiến thức hiện tại mà sáng tạo ra những điều mới mẻ hơn, phục vụ cho đời sống vật chất lẩn tinh thần cho toàn xã hội. Chẳng hạn như là nhà khoa học Edison với bóng đèn điện hay xe lửa,… hay những công thức Toán của Thales và Pythagore, tất cả đều được sử dụng rộng rãi cả ngàn năm nay,… Chúng ta còn được tìm hiểu về quá trình lai của các loại cây từ những nghiên cứu của Mendel,… Như vậy, thật đúng đắn khi tìm hiểu sau vào nguồn tri thức vô hạn này.
Thế nhưng, không phải sức mạnh nào cũng được tạo ra bởi tri thức cũng đem lại hạnh phúc cho con người. Nếu sử dụng vốn tri thức uyên bác của mình theo lợi ích, tham vọng riêng của các nhân thì e rằng sản phẩm của tri thức sẽ đem lại tang thương cho cả xã hội loài người. Chúng ta từng biết tới Nobel như một ông vua thuốc nổ. Ông đã tìm ra công thức kết hợp Nitroglycerin với những vật chất khác để hoàn thiện sản phẩm nổ của mình. Thuốc nổ của ông được sử dụng trong việc phá đá, phá núi,… thế nhưng khi công thức đó rơi vào tay của những kẻ độc ác, cũng như những người thiếu hiểu biết và người không biết cách sử dụng an toàn thì Thuốc nổ của Nobel trở thành một vũ khí huỷ diệt con người. Một minh chứng cho chúng ta thấy rõ được vấn đề chính là nỗi đau tang thương của người dân Nhật Bản khi hứng chịu hai trái bom nguyên tử Fat Man và Little Boy (Dự án Manhattan) – là sản phẩm trên lý thuyết của Albert Einstein (Người sáng tạo ra Thuyết tương đối), Bohr (Người sáng tạo chính ra thuyết Lượng tử), John von Neumann (Nhân vật sáng tạo Lý thuyết trò chơi) và cùng nhiều nhà khoa học kiệt xuất khác khi rơi vào tay những nhà quân sự của Hoa Kỳ (Những người có tâm niệm “Không thể không cho toàn thế giới biết sức mạnh của Mỹ”) trong WW2. Qua những bằng chứng khủng khiếp đó, ta thấy được tầm quan trọng của việc tỉnh táo khi sử dụng nguồn tri thức vô hạn này. Nếu ứng dụng nó cho quyền lợi cá nhân thì cả xã hội sẽ đi đến điểm KẾT THÚC.
Việt Nam ta là quốc gia có tinh thần học tập rất đáng ngợi khen. Từ thới nhà Lý đã tổ chức được khoa thi tuyển chọn nhân tài. Tất cả các bậc danh hiền đó đã cùng nhau gom góp tri thức để xây dựng quốc gia Đại Việt xưa ngày một tốt đẹp và phát triển. Là một người con nước Việt, chúng ta không còn xa lạ khi nhắc đến cụ Phan Bội Châu với Phong trào Đông Du, hay cụ Chu Văn An đã đào tạo ra những nhân tài cho đất nước. Ngoài ra chúng ta còn có cụ Nguyễn Đình chiều với những bài thơ cổ động chống Pháp, cụ Nguyễn Du với những bài thơ mang đậm triết lý nhân sinh,…
Tiếp theo những thế hệ cha ông đi trước, hàng loạt những phong trào học tập diễn ra để phát triển nhân tài. Tiêu biểu cho giai đoạn phát triển phong trào đấu tranh – học tập này là Bác Hồ. Bác đã bôn ba khắp chốn để tìm kiếm, gom góp kiến thức, chiến lược để đem về quê nhà với khát khao giải thoát dân tộc khỏi ách thống trị của Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ. Và trên con đường gian khổ đó, Bác đã gặp được học thuyết Marx-Lenin, một con đường để đưa nước ta đến cao trào cách mạng. Đó có thể được xem là sức mạnh vô hạn mà Bác đã ứng dụng, đem lại tự do cho toàn thể dân tộc Việt Nam. Thật đáng tự hào cho một con người với một nguồn tri thức dồi dào, là niềm vinh hạnh cho đất nước.
Đó là những thành tựu, là sức mạnh mà những con người ở thế kỷ trước đem lại cho dân tộc. Thế trong những thời gian gần đây, những con người nào đã làm sáng danh dân tộc? Vâng, đó là GS Ngô Bảo Châu – người chứng minh thành công bổ đề Langlands trong 16 năm kiên trì nhẫn nại. Ông đã được tôn vinh trước toàn thế giới với giải thưởng Toán học danh giá Fields. Họ là những người đã trưởng thành và có những cống hiến to lớn, vậy ở lứa tuổi THPT, nước Việt ta đã có những thành tựu nào được quốc tế ghi nhận. Qua các kỳ thi Olympic quốc tế, những cái tên như Lê Bá Khánh Trình (HCV Đặc biệt Olympic Toán 1979), Đậu Hải Đăng (HCV Olympic Toán 2012) hay Trần Hoàng Bảo Linh (HCĐ Olympic Toán 2012 – Học sinh lớp 11 trường PTNK),… Quả thật không còn ngôn từ nào để diễn tả được sức mạnh mà tri thức đem lại cho loài người chúng ta.
Qua những lời phân tích trên, chúng ta có thể thấy được sức mạnh mà tri thức đem lại. Nó không chỉ là sức mạnh về quân sự, hay khả năng huỷ diệt hàng loạt,… mà còn là niềm tự hào, sự cứu rỗi cho toàn dân tộc. Hiện nay, một vấn đề Toán học đang được rất nhiều nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu và phát triển, đem lại biết bao ứng dụng cho các ngành khoa học khác như Y học, Công Nghệ, Kinh tế học,… Đó là LÝ THUYẾT TRÒ CHƠI (John von Neumann). Nhiều nhà kinh tế học đã được giải Nobel Kinh tế cho những thành tựu quan trọng được xây dựng từ lý thuyết này. Hi vọng một ngày nào đó, chúng ta sẽ có thêm những con người ứng dụng Lý thuyết này trong một ngành khoa học, để đem lại lợi ích và niềm tự hào cho toàn thể dân tộc Việt Nam.
Nói tóm lại, chuyện gì cũng luôn có hai mặt đối lập song hành. Vì vậy, chúng ta phải thật sự tỉnh táo để có thể hiểu được sức mạnh mà tri thức đem lại. Hãy sử dụng vốn tri thức của mình để đem lại hạnh phúc cho người khác. Chứ đừng dùng nó để khiến cho cả thế giới này khóc nhiều hơn. Nhân loại đã khóc quá nhiều trong các cuộc chiến tranh. Và nhiệm vụ của chúng ta là xây dụng Hoà bình. Là một công dân sống trên Trái Đất này, hơn nữa lại là người con nước Việt, chúng ta còn chần chờ gì mà không ra sức học tập, rèn luyện, sáng tạo để tiếp thu và phát huy nguồn tri thức, tích góp kinh nghiệm cho bản thân để đem đi giúp đời, giúp người. Hãy phát triển nguồn tri thức ngày một rộng lớn hơn, và để nó mạnh mẽ hơn, bạn nhé !!!
tick cho mình đúng nhe mình mất nhiều thời gian để làm bài này lắm đó
Phân tích bài Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu:
Khách có kẻ :
Giương buồm giong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trang mải miết.
Sớm gõ chừ Nguyên Tương
Chiều lần thăm chừ Vũ huyệt
Cửu Giang,Ngũ Hồ,
Tam Ngô,Bách việt.
Nơi có người đi,
Đâu mà chẳng biết.
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều.
Mà tráng trì bốn phương vẫn còn tha thiết.
Bèn giữa gòn chừ buông chèo,
Học Tử Trường chừ thú tiêu dao.
Qua cửa Đại Than,ngược bến Đông Triều,
Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều.
Bát ngát sóng kình muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một màu.
Nước trời : một sắc,
Phong cảnh : ba thu.
Bờ lau san sát,
Bến lách đìu hiu.
Sông chìm giáo gãy,
Gò đầy xương khô.
Buồn vì cảnh thảm,
Đướng lặng giừo lâu.
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.
Bên sông bô lão :
Hỏi ý ta sở cầu.
Có kẻ gậy le chống trước,
Có người thuyền nhẹ bơi sau.
Vái ta mà thưa rằng :
Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng nhị khánh bắt Ô Mã,
Cũng là bãi đất xưa,thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao.
Đương khi ấy :
Thuyền tàu muôn đội,
Tinh kỳ phất phới.
Hùng hổ sáu quân,
Giáo gươm sáng chói.
Trận đánh được thua chửa phân,
Chiến luỹ Bắc Nam chống đối.
Ánh nhật nguyệt chừ mờ,
Bầu trời đất chừ sắp đổi.
Kìa :
Tất Liệt thế cường,
Lưu Cung chuốc dối.
Những tưởng gieo roi một lần,
Quét sạch Nam bang bốn cõi.
Thế nhưng :
Trời cũng chiều người,
Hung đồ hết lối.
Khác nào như khi xưa :
Trận Xích Bích,quân Tào Tháo tan tác tro bay,
Trận Hợp Phì,giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.
Đến nay sông nước tuy chẳng chảy hoài,
Mà nhục quân thù khôn rửa nổi.
Tái tạo công lao,
Nghìn xưa ca ngợi.
Tuy nhiên :
Từ khi có vũ trụ,
Đã có giang san.
Quả là : trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ : nhân tài giữ cuộc diện an.
Hội nào bằng hội Mạnh Tân : có vương sư họ Lã,
Trận nào bằng trận Duy Thuỷ : có quốc sĩ họ Hàn.
Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng,
Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.
Tiếng thơm còn mãi,
Bia miệng không còn.
Đến chơi sông chừ ủ mặt,
Nhớ người xưa chừ lệ chan.
Rồi vừa đi vừa ca rằng :
“Sông Đằng một dải dài ghê,
Sóng hồng cuồn cuộn tuôn về Đông.
Những người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh!”.
Khách cũng nối tiếp mà ca rằng :
“Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
Giặc tan muôn thuở thanh bình,
Bởi đâu đất hiếm,cốt mình đức cao”.
Gợi ý làm bài
Giá trị lớn nhất của bài phú này là : với lòng tự hào dân tộc,bằng một hơi văn liền mạch,bút pháp bi hùng,tác phẩm gợi lên trong lòng người đọc cảm hứng hào hùng về những chiến công hiển hách trên sông Bạch Đằng,cảm hứng bi tráng thuộc hào khí Đông A.
1.Tác giả
- Trương Hán Siêu ( ?-1354 ) tự là Thăng Phủ ,hiệu Đôn Tẩu , người xã phúc thành , huyện Yên Ninh ( nay thuộc thị xã Ninh Bình ). Ông có tài và học giỏi , từng là môn khách của Trần Hưng Đạo , sau làm quan từ triều Trần Anh Tông đến triều Trần Dụ Tông , lúc chết được thăng tước Thái Bảo , Thái phó và được thờ ở Văn Miếu ( Thăng Long ).
- Tính tình cương trực , học vấn uyên thâm , sinh thời được các vua Trần tin cậy , nhân dân kính trọng.
- Tác phẩm: còn 4 bài thơ và 3 bài văn , trong đó có Bặch Đằng giang phú nổi tiếng nhất.
2. Hoàn cảnh sáng tác:
- Bạch Đằng là một nhánh sông Kinh Thầy , nơi ghi dấu những chiến công hào hùng và trở thành thi tứ cho nhiều tác phẩm văn học.
- Ước mơ đoán viết vào khoảng 50 năm sau cuộc chiến chống giặc Nguyên Mông thắng lợi.
3. Thể loại:
- Viết theo thể phú , nguyên tác bằng chữ Hán.
- Phú là thể hiện văn vần , dùng để tả cảnh vật , phong tục , tập quán , tính tình .Hai loại phú phổ biến là phú cổ thể và phú Đường Luật .Phú cổ thể vốn có từ trước đời nhà Đường , có vần , không đối , như bài ca dài , hoặc bài văn xuôi có vần , vì thế nên còn gọi là phú lưu thuỷ ( nước chẩy ).Còn Phú Đường luật được đặt ra từ đời Đường , có vần , đối , theo luật bằng trắc khá chặt chẽ .Bài phú của Trương Hán Siêu viết theo lối cổ thể .Bản dịch theo nguyên điệu , trừ hai bài ca cuối cùng chuyển sang thể lục bát .
4. Câu tứ:
- Dùng hình thức đối đáp giữa khách và bô lão. Khách ở đây chính là tác giả.
5.Phân tích:
5.1 Giới thiệu người và hoàn cảnh:
- Người:
+ Khách : là nhân vật do tác giả sáng tạo nên , nhưng ở đây cũng chính là tác giả .Trong thể phú , thường có nhân vật khách để kể chuyện cho hấp dẫn.
+ Khách đến những địa danh nổi tiếng
Tính ước lệ -> người có lòng yêu thiên nhiên , thú du ngoạn , tâm hồn khoáng đạt , chí khí lớn lao , mang tráng chí bốn phương .
Bặch Đằng ->tả thực .Không chỉ có thú tiêu dao mà còn là người yêu lịch sủ dân tộc ,học ltheo Tử Trường xưa.
Giọng văn thanh thản , phơi phới.
=>Hình tượng nhân vật khách : tự khẳng định mình là một hồn thơ,một khách hải hồ đồng thời là một kẻ sĩ thiết tha với đất nước và lịch sử dân tộc.
- Cảnh:
+ Sông Bặch Đằng hùng vĩ , hoành tráng:
Bát ngát sóng kinh muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một mầu.
Nước trời : một sắc.
Phong cảch : ba thu.
+ Nhưng lại ảm đạm , hiu hắt:
Bò lau san sát,
Bến lách đìu hiu.
Sông chìm giáo gãy,
Gò đầy xương khô.
+ Qua cách nhìn cảnh vật , ta đọc tâm trạng của khách vừa vui , vừa buồn , vừa tự hào , vừa tiếc nhớ .Vui với cảnh sông nước mênh mồn , có thuyền bè xuôi ngược .Buồn đau,nuối tiếc vì thấy cảnh chiến trường xưa ,chiến thắng oanh liệt còn hừng hực là thế , mà nay sao trơ trọi , hoang vu , hiu quạnh là vậy .Dòng thời gian đang làm mờ bao dấu vết.Bởi thế:
Buồn vì cảnh thảm,
Đứng lặng giờ lâu.
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.
+ Giọng điệu trầm lặng .Một tâm hồn phóng túng , mạnh mẽ cũng trở nên sững sờ , buồn tiếc.
=>Nhân vật khách , tuy có tính chất công thức của thể phú , đã được Trương Hán Siêu thổi vào , trở nên sinh động .Nhân vật khách chính là cái tôi của tác giả , một kẻ sĩ nặng lòng với đất nước, với lịch sửdân tộc.
5.2 Lời các bô lão:
- Bô lão:
+ Hình ảnh tập thể , người dân địa phương , có thể từng chứng kiến hoặc tham gia các trận chiến xưa.
+ Xuất hiện như một sự hô ứng có tính lịch đại,có thể nhằm tạo không khí đối đáp tự nhiên,kể cho khạch nghe về những trận thuỷ chiến.
+ Thái độ các bô lã nhiệt tình hiếu khách.
- Trận Bặch Đằng qua lời kể các bô lão:
+Lời kể được sắp xếp tho dòng hồi tưởng.
+Giới thiệu hai trận đánh.
+Tả lại cnảh chiến trận,chủ yếu là chiến tích năm 1288.
Lúc đầu ra quân trong thế trận giằng co , ngang sức ngang tài , bất phân thắng bại .Cuộc chiến diễn ra ác liệt , đến nỗi : Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ / Bầu trời đất sắp đổi.
Câu văn sử dụng biện pháp đối lập báo hiệu một trận đánh kinh thiên động địa .
So sánh trận chiến thắng Bạch Đằng với trận Xích Bích , Hợp Phì ( của Trung Hoa ) với niềm tự hào dân tộc.
Nghệ thuật : lời kể súc tích , đầy cảm hứng , có hồi hộp nhưng sảng khoái của người trong cuộc .Lời kể , lúc dùng câu ngắn gợi không khí gấp gáp căng thẳng , lúc câu dài gợi không khí trnag nghiêm dõng dạc.
Cách miêu tả ngắn gọn mà vẫn cụ thể , tỉ mỉ khiến người đọc tưởng như cuộc chiến đang diễn ra trong hiện tại.
- Lời bình luận các bô lão:
+Suy nghĩ về nỗi nhục của kẻ thù .
+Suy ngẫm về nguyên nhân ta thắng , địch thua .Ta chiến thắng vì ta chiến đấu bảo vệ non sông , chiến đấu cho chính nghĩa .Trời lại cho nơi đất hiểm .Nhưng điều quyết định là ta có nhân tài.
Từ khi có vũ trụ,
Đã có giang san.
Quả là : trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ : nhân tài giữ cuộc điện an.
Nhấn mạnh yếu tố con người là cảm hứng mang tính nhân văn , có tầm triết lý sâu sắc. Lời bình luận vừa hào hùng sâu lắng thiêng liêng.
+Tâm trạng của các bô lão khi nhắc đến người xưa , cũng buồn thương , tiếc nuối :
Đến chơi sông chừ ủ mặt,
Nhớ người cưa chừ lệ chan.
+Lời ca của bô lão là lời tuyên ngôn sảng khoái , dõng dạc về chân lý: nhưng kẻ nghĩa tiêu vong , người anh hùng sẽ bất tử như sự tồn tại vĩnh hằng của dòng sông lịch sử.
5.3 Lời ca của khách:
- Ca ngợi công đức hai vị vua Trần ( Trần Thánh Tông , Trần Nhân Tông) đem lại thái bình cho đất nước.
- Bày tỏ khát vọng hoà bình muôn thuở.
- Ở câu cuối , khách vừa biện luận , vừa khẳng định chân lý : sức mạnh chính nghĩa , đạo đức dân tộc là yếu tố quyết định chiến thắng.
- Lời ca của khách chỉ có bốn câu mà ý tưởng sâu xa.Giọng văn phơi phới , hân hoan.
6.Chủ đề:
Qua việc tái hiện không khí chiến thắng hào hùng trên sông Bặch Đằng , tác phẩm toát lên niềm tự hào dân tộc - tự hào về truyền thống anh hùng bất khất , tinh thần chuộng đạo lý của dân tộc , vẻ đẹp tâm hồn con người Đại Việt
Có gì sai sót mong bạn bỏ qua nhé
#Tk
Trương Hán Siêu là một người có tính tình cương trực, học vấn uyên tâm, được các vua Trần tin cậy và tin dùng. Ông là một trong những danh sĩ nổi tiếng nhất đời Trần, nhưng số lượng tác phẩm để lại không nhiều. Nổi bật nhất là Bạch Đằng giang phú, với hình tượng nhân vật “khách” để lại nhiều dư âm, ấn tượng trong lòng bạn đọc. Nhân vật “khách” có thú du ngoạn bốn phương, tâm hồn tự do, phóng khoáng :
Giương buồm giong gió chơi vơi
Lướt bể chơi trăng mải miết ….
Các địa danh được liệt kê liên tiếp: Nguyên Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô,… đây đều là những địa danh của Trung Quốc, thắng cảnh đẹp đẽ mà ai cũng mong muốn, mơ ước được một lần đặt chân đến. Nhân vật “khách” mượn những địa danh này để nói lên niềm đam mê, sở thích du ngoạn bốn phương của mình. Cách ông dùng từ đối lập: sớm – tối đã thể hiện rõ sở thích ngao du thiên hạ của bản thân. Qua sở thích đó còn thể hiện khát vọng tìm đến những vùng đất mới để khám phá và tìm hiểu văn hóa, lịch sử. Mặc dù nhân vật khách đã được đi nhiều nơi nhưng Mà tráng trí bốn phương vẫn còn tha thiết. Đằng sau đó, ta còn thấy nguyện vọng, mong muốn thật sự của nhân vật “khách” khi đi du ngoạn non sông là muốn học theo Tử Trường ngao du mọi nơi để tìm hiểu về lịch sử dân tộc.
Tham khảo:
Trong sự nghiệp văn học của mình, Trương Hán Siêu sáng tác không nhiều nhưng có lẽ chỉ cần một Bạch Đằng giang phú cũng đủ để làm nên tên tuổi của ông. Đọc bài ca, hầu hết mọi người đều chung ý nghĩ: nhân vật “khách” là sự phân thân của chính tác giả và sự xuất hiện của nhân vật này có ý nghĩa khá quan trọng.
Mở đầu bài phú, hình tượng nhân vật “khách” hiện lên gây ấn tượng trong mỗi chúng ta bởi thú tiêu dao. “Khách” dạo chơi phong cảnh để thưởng ngoạn vẻ đẹp của thiên nhiên, để nghiên cứu cảnh trí đất nước, bồi bổ tri thức. Tư thế của “khách” là tư thế của con người có tâm hồn khoáng đạt, hoài bão lớn lao:
Nơi có người đi đâu mà chẳng biết.
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết
Tráng chí của “khách” thực ra cũng chính là tráng chí của Trương Hán Siêu. Nó được gợi lên từ các địa danh mà “khách” đã đi qua. Có những địa danh “khách” đi qua bằng sách vở, bằng trí tưởng tượng:
Sớm gõ thuyền chừ Nguyên, Tương,
Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt
Không gian “khách” đi qua thường là không gian rộng lớn như biển lớn (lướt bể chơi trăng), sông hồ (Cửu Giang, Ngũ Hồ), là những vùng đất nổi tiếng như Tam Ngô, Bách Việt, Vân Mộng…
Những chuyến phiêu lưu trong tưởng tượng như thế thể hiện tráng chí bốn phương của “khách”. Điều đáng quí là không vì mải miết chơi xa mà “khách” quên yêu những thắng cảnh của đất nước mình. Và đó là lí do “khách” dùng chân ở sông Bạch Đằng:
Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều,
Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều.
Để rồi, thuyền trôi đến nơi đâu trên dòng sông ấy, trong lòng “khách” cũng sông lên những cảm xúc tự nhiên, chân thành. Có khi tráng chí cất cánh cùng thiên nhiên hùng vĩ:
Bát ngát sóng kình muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một màu.
Cũng có khi lòng “khách” lắng vào cảnh vật ảm đạm, hiu hắt:
Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu.
Sông chìm giáo gẫy, gò đầy xương khô
Sự xuất hiện của “khách” trong Bạch Đằng giang phú gắn với hình ảnh thiên nhiên thể hiện tâm hồn lãng mạn và lòng yêu quê hương đất nước của nhân vật hay cũng chính là của Trương Hán Siêu.
Ở phần tiếp của bài ca, nhà văn đã để nhân vật “khách” đối thoại với các bô lão xung quanh chủ đề: cuộc chiến đấu và chiến thắng của quân đội nhà Trần trước quân Nguyên Mông. “Khách” được các bô lão kể về chiến tích Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã. Sau lời kể về trận chiến là lời bình luận và suy ngẫm của các bô lão về chiến thắng trên sông Bạch Đằng. Trong cuộc đốì thoại, nhân vật “khách” đóng vai trò là người lắng nghe câu chuyện, đồng thời là người nói lời cuối cùng, kết lại lời kể và bình luận của các bô lão:
Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
Giặc tan muôn thuở thăng bình,
Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao.
Có thể nói tư tưởng nhân văn của Trương Hán Siêu được thể hiện đậm nét trong những câu ca này và chính “khách” là người phát ngôn thay cho tác giả. Lời ca của “khách” khẳng định vai trò, vị trí quyết định của yếu tố con người trong công cuộc trùng hưng đất nước. Theo Trương Hán Siêu, thắng giặc không cốt ở đất hiểm mà chủ yếu là đức lớn, là sức mạnh của con người. Không có con người thì những yếu tố “thiên thời, địa lợi” cũng không giúp con người chiến thắng. Lời ca của nhân vật “khách”, thể hiện rõ sự tôn kính đối với hai vị vua triều Trần (Trần Nhân Tông và Trần Thánh Tông). Ngợi ca công lao nghìn năm tiết rỡ của con người là cách Trương Hán Siêu thể hiện cảm hứng mang giá trị nhân văn có tầm triết lí sâu sắc.
Như vậy, nhân vật “khách” xuất hiện trong tác phẩm cùng với những ý nghĩa quan trọng. Đây chính là hình ảnh trữ tình của nhà văn Trương Hán Siêu. “Khách”vừa là hình tượng nhân vật trong bài phú, vừa thể hiện lòng yêu quê hương đất nước, niềm tự hào dân tộc cũng như tinh thần nhân văn cao cả. Từ nhân vật này, ta có thể hình dung một cách rõ ràng về nội dung tư tưởng của sáng tác và tấm lòng yêu nước của Trương Hán Siêu.
1,
- Bài thơ "Viếng lăng Bác" đã để lại trong lòng bạn đọc những cảm xúc sâu lắng và tha thiết. Với những hình ảnh ẩn dụ độc đáo và những biện pháp tu từ đặc sắc, Viễn Phương đã thể hiện một hồn thơ rất riêng. Qua bài thơ, Viễn Phương đã thay nhân dân miền Nam nói riêng và nhân dân cả nước nói chung dâng lên Bác niềm cảm xúc chân thành, lòng tôn kính thiêng liêng.
- Bài thơ sẽ tiếp tục sống trong lòng người đọc, gợi nhắc cho những thế hệ kế tục thành quả rực rỡ của cách mạng cách sống sao cho xứng đáng với sự hi sinh của một con người vĩ đại mà giản dị- Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đã sống trọn một đời:
"Chỉ biết quên mình cho hết thảy
Như dòng sông chảy nặng phù sa"
2,
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ tài ba, người cha già của cả dân tộc Việt Nam. Bác là người đã tìm và dẫn đường cho cách mạng của dân tộc ta đi tới thành công, mang lại cuộc sống hòa bình ấm no và hạnh phúc như ngày hôm nay. Nói đến công lao của Người với dân tộc Việt Nam là không thể kể hết. Đã có rất nhiều tác phẩm văn chương viết về Bác, tiêu biểu là bài thơ “Viếng lăng Bác” của tác giả Viễn Phương.
Đây là một bài thơ thể hiện nỗi xúc động của người con nơi miền Nam sau bao ngày mong nhớ đã được ra thăm lăng Bác. Đó không còn là tình cảm riêng của nhà thơ đối với Bác mà là của tất cả người con dân miền Nam. Trong sự xúc động ấy, từ trong cảm nhận và tâm hồn của nhà thơ đã khắc họa hình tượng Bác Hồ thật cao đẹp:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
Hình ảnh mặt trời được nhắc đến hai lần, đây là một dụng ý nghệ thuật của nhà thơ. Ở câu thơ thứ nhất, mặt trời chính là mặt trời của tự nhiên, mang đến ánh sáng và năng lượng duy trì sự sống cho muôn loài vật trên trái đất, kể cả con người. Từ ý nghĩa của mặt trời tự nhiên, nhà thơ đã nhắc đến một mặt trời thứ hai.đố chính là một ẩn dụ về Bác. Bác cũng giống như mặt trời tự nhiên, là nguồn ánh sáng soi lối dẫn dắt cho con đường cách mạng của Việt Nam, bác chính là nguồn sống và hi vọng, niềm tin bào vệ hòa bình độc lập dân tộc.
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Bác Hồ là người mà cả dân tộc Việt Nam yêu kính, bác đã gắn mình với dân tộc, suốt một đời lo cho vận mệnh và an nguy của đất nước. Sự ra đi của bác là một mất mát, đau thương to lớn không thể nào bù đắp được của cả dân tộc Việt Nam. Tuy hiện thực là bác đã không còn nữa, bác đã ra đi mãi mãi nhưng đối với nhân dân Việt Nam, bác vẫn mãi sống bất diệt trong tâm thức mỗi người. Những con người vẫn luôn hướng về Bác, dâng lên bác những tràng hoa của lòng kính yêu và biết ơn sâu sắc.
“Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”
Trong tâm thức của con người Việt Nam, Bác không hề ra đi, bác vẫn còn sống mãi với dân tộc Việt Nam, Bác chỉ là đang ngủ một giấc ngủ sâu, một giấc ngủ bình yên. Đất nước đã hòa bình, thống nhất và phát triển, nhân dân được ấm no, hạnh phúc nên giấc ngủ của Bác càng được bình yên hơn. Dù Bác đang ngủ nhưng Bác vẫn đang dõi theo cả dân tộc, tình yêu của con người Việt Nam cũng vẫn mãi vằng vằng không bao giờ tắt như ánh trăng.
Bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là những tâm sự chân thành và sâu sắc nhất của nhà thơ, là sự nghẹn ngào, xúc động khi được ra thăm người cha già kính yêu. Đồng thời, nhà thơ đã mang đến cho người đọc bức chân dung thật đẹp về Bác, hình ảnh đẹp ấy mãi sáng rực trong lòng mỗi con người Việt Nam.
Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu là một tác phẩm tiêu biểu của văn học yêu nước thời Lí- Trần.
Trương Hán Siêu (?- 1354) là nhà văn đời Trần, quê ở Ninh Bình. Thời trẻ, ông từng là môn khách của Trần Hưng Đạo, là người có ít nhiều đóng góp trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông lần thứ hai và thứ ba. Ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều Trần, là người học vấn uyên thâm, tính tình cương trực, được các vua Trần tôn là thầy, được các nho sĩ đời sau xem là một trí thức nho học chân chính của thời Thịnh Trần. Tác phẩm của ông bộc lộ tinh thần yêu non sông đất nước, tự hào về truyền thống vẻ vang của lịch sử dân tộc, đượm sắc thái trữ tình hoài cổ. Ngôn ngữ trong văn chương của Trương Hán Siêu tinh tế, lắng đọng, sử dụng thành công những hình dung từ giàu sắc thái trữ tình, giọng điệu thi phú rất uyển chuyển.
Bài “Phú sông Bạch Đằng” được sáng tác sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông khoảng 50 năm. Bạch Đằng là con sông ghi dấu nhiều chiến công oanh liệt của dân tộc như trận thắng quân Nam Hán năm 938 của Ngô Quyền, trận thắng quân Nguyên Mông năm 1288 của Trần Hưng Đạo. Đã có rất nhiều nhà thơ viết về con sông lịch sử đầy niềm tự hào này, nhưng bài “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu là nổi tiếng và đặc sắc nhất. Tác phẩm được viết theo lối phú cổ thể. Đây là một thể loại văn có nguồn gốc từ Trung Quốc, viết bằng văn vần hoặc văn xuôi có xen lẫn văn vần, có nội dung kể, tả khách quan các sự việc, phong tục, cảnh vật, bàn sự đời.
Bài “Phú sông Bạch Đằng” có hai nhân vật là khách và các bô lão. Khách trong tác phẩm là người có chí bốn phương, thích du ngoạn, ngắm cảnh, bồi bổ kiến thức “Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều”. Khách bơi thuyền đến sông Bạch Đằng, được gặp các bô lão, được các bô lão kể cho nghe về chiến công oanh liệt của tướng quân nhà Trần năm nào khiến cho “Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ-Bầu trời đất chừ sắp đổi” với ‘Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới-Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói”. Khách và các bô lão bình luận về tầm vóc của chiến thắng, rút ra những nguyên nhân thắng lợi và ca ngợi sự tài tình, nhân đức của các vua Trần cùng tướng quân Trần Quốc Tuấn:
Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
Giặc tan muôn thủa thanh bình,
Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao
“Phú sông Bạch Đằng” là bài phú tiêu biểu bộc lộ lòng yêu nước, tự hào dân tộc, tự hào về truyền thống anh hùng, truyền thống nhân nghĩa sáng ngời của đất nước ta. Bài phú còn thể hiện tinh thần nhân văn cao đẹp, tâm sự hoài cổ tha thiết của tác giả. Tác phẩm có cấu tứ đơn giản, lời văn linh hoạt, hình tượng nghệ thuật sinh động, từ ngữ gợi hình sắc, giọng điệu hào hùng trang trọng, có lúc lắng đọng gợi cảm, lúc lại triết lí sâu xa. Tác phẩm được đánh giá là đã đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật phú của văn học trung đại Việt Nam.
Lịch sử nước ta đã trải qua biết bao nhiêu là chiến thắng và có những chiến thắng thì gắn liền với những tên con sông lớn. Nhưng có lẽ con sông được lịch sử cũng như thơ ca văn học nhắc đến nhiều nhất là sông Bạch Đằng. Con sông ấy đã mang đến cho lịch sử dân tộc ta hai chiến thắng vang dội đó là chiến thắng của Ngô Quyền năm 938 và chiến thằng quân Nguyên Mông của nhà Trần. Và con sông ấy không chỉ hiện lên với vẻ đẹp của chiến thắng lịch sử mà còn hiện lên trong thơ ca với tác phẩm Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu.
Trước tiên bài thơ ấy mở đầu với những câu thơ hay để mang đến những cái nhìn của người khách trong bài về sông Bạch Đằng. Có thể nói qua những câu thơ ấy tất cả những vẻ đẹp chí cảnh của con sông anh hùng hiện lên thật rõ:
“Khách có kẻ:
Giương buồm giong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết.
Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương,
……
Sông chìm giáo gãy,
Gò đầy xương khô.
Buồn vì cảnh thảm,
Đứng lặng giờ lâu.
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu. ”
Những câu thơ ấy không chỉ nói đến phẩm chất phóng túng và tâm hồn ngao du đây đó của người khách kia mà còn nói đến những vẻ đẹp của sông Bạch Đằng. Vẻ đẹp ấy được phản quang qua tâm hồn và đôi mắt vọng cảnh, sự tự hào về lịch sử ông cha. Hàng loạt những địa danh được hiện lên, nào là Nguyên Tương, Cửa Giang, Ngũ Hồ, Tam Bách… hiện lên rồi cuối cùng người khách ấy cũng đến với sông Bạch Đằng. con sông ấy thuộc tỉnh Quảng Ninh là con sông không chỉ hữu tình mà còn có công trong nhiều trận chiến thắng. Ngược bến Đông Triều để tới với vùng thủy chiến anh hùng ấy. Trong sự bao la của non nước đất trời muôn vàn sóng kình nổi lên thành từng lớp lớp một. Nó gợi lên cái nhìn thật xa xăm mênh mông sóng nước dập dềnh. Trên con sông ấy những con thuyền đuôi trĩ một màu giống nhau như làm nên một bức tranh sông nước con thuyền cong đẹp đến mê hồn người. Tất cả mang đến cho tâm hồn ta những cảm xúc yên bình thanh thản. Đọc đến đây người đọc có thể cảm nhận được hết những cái thần thái trí cảnh của một miền sông nước hiền hòa giữa thiên nhiên và cảnh vật. màu trời màu nước sông hiền hòa hợp làm một. Bên bờ những bông lau, những san sắt cạnh những bến lách đìu hiu. Như vậy có thể thấy con sông Bạch Đằng không mang vẻ đẹp hung bạo như con sông Đà trong tùy bút của Nguyễn Tuân mà nó mang vẻ đẹp của một dòng sông hiền hòa thơ mộng.
Không những thế con sông ấy còn hiện lên những vẻ đẹp hào hùng với những chiến công mà nó đạt được trong lịch sử. Con sông ấy qua những vần thơ của nhà thơ Trương Hán Siêu với hình ảnh mang đến cảnh tượng thất bại của kẻ thù. Nào là giáo gãy, nào là gò đầy sương khô. Những hình ảnh như những minh chứng về chiến công mà sông Bạch Đằng đem lại cho nhân dân Việt nam ta. Bọn xâm lăng đã cả gan mang quân sang xâm chiếm nước ta một cách phi nhân đạo, phi chính nghĩa như thế mà “Sông núi nước Nam vua Nam ở” cho nên chúng sẽ chỉ có một kết quả là vùi xác ở sông Bạch Đằng mà thôi. Có thể thấy rằng con sông hiền hòa như thế nhưng khi anh hùng khi tức giận thì nó lập tức trở thành một người anh hùng dang rộng lòng sông của mình để chôn vùi những con người độc ác và bảo vệ nhân dân ta.
Và con sông ấy hiên lên đẹp hơn rõ nét hơn khi các bô lão nói về những trận đánh trên sông Bạch Đằng năm xưa. Đó là vẻ đẹp của thuyền tàu muôn đội, tinh kì phấp phới, nào người sáu quân, nào gươm sáng lóa. Con sống hiện lên trong cảnh chiến đấu kiên cường của nhân dân ta. Họ vẫn chống đối lại phía kẻ thù một cách kiên cường và đến lúc kết thúc con sông có quyết định rất lớn đến việc thắng thua trận chiến ấy. Thế rồi khi ánh hoàng hôn buông xuống dòng sông ấy làm cho nước thủy triều bắt đầu rút xuống khiến cho quân ta chuyển biến thể lực. thời cơ đã đến quân đội ta đã rút về để dụ giặc vào trận địa trên sông Bạch Đằng:
“Thuyền tàu muôn đội,
Tinh kì phấp phới.
Hùng hổ sáu quân,
Giáo gươm sáng chói.
Trận đánh được thua chửa phân,
Chiến lũy bắc nam chống đối.
Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
Bầu trời đất chừ sắp đổi. ”
Con sông ấy đã trở thành điều kiện để cho quân đội ta chiến thắng vẻ vang còn cái lũ ác nhân phi nhân đạo kia tướng thì bị bắt sống, quân có người chết vùi xương trong trận địa kiên cố ấy. Có lẽ rằng con sông ấy đã làm nên lịch sử nước nhà. Nó không chỉ là một con sông bình thường mà nó còn là con sông biết chiến đấu. Nó dường như mang linh hồn dân tộc Đại Việt ta.
Đó chính là những nét đẹp thiên nhiên và những nét đẹp lịch sử của ta. Tuy nhiên con sông Bạch Đằng không chỉ đẹp trong quá khứ mà nó còn đẹp trong cả hiện đại ấy. Thế nhưng nét đẹp trong quá khứ là nền tảng của nét đẹp trong hiện tại. Này nay con sông ấy vẫn hiền hòa như thế nhưng cũng có lúc sóng nước ồn ào như ôn lại những chuyện cũ lấy lừng trong lịch sử. Còn đối với kẻ thù thì mối nhục nước lớn thua nước nhỏ ấy không bao giờ rửa được. Ta thấy tự hào về con sông ấy và khẳng định rằng Việt Nam tuy nhỏ nhưng không chỉ con người mà ngay cả dòng sông cũng hiền hòa thiện cảm. Thế nhưng một khi đã có chiến tranh thì cả người cả sông đều quyết tâm giữ gìn non sông ấy đến cùng.
“Sông Đằng một dải dài ghê,
Sóng hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông.
Những người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh!”
Khách cũng nối tiếp mà ca rằng:
“Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
Giặc tan muôn thuở thanh bình,
Bởi đâu thoát hiểm cốt mình đức cao. “
Sóng sông Bạch Đằng lại cuồn cuộn tuôn chảy về biển Đông rộng lớn sau bao những khó khăn của cuộc chiến tranh. Khi tức giận kẻ thù sông dãn lòng mình như một cái miệng lớn mà nuốt sông những kẻ thù, khi thời bình lập lại sông lại hiền hòa thân thiện như đức tính ưa chuộng hòa bình của người Việt Nam. Những kẻ ác thì bị tiêu vong, người ngay thẳng sông nâng lên để đời sau nhớ mãi.
Qua đây ta thấy Trương Hán Siêu đã mang đến cho ta những bức tranh sông Bạch Đằng đầy màu sắc, trạng thái, mang nhiều nét đẹp. Con sông ấy không những có nét đẹp của quá khứ với cảnh đẹp thiên nhiên, với những chiến công lừng lẫy mà con sông ấy còn rất đẹp trong hiện tại một vẻ đẹp hiền hòa tuôn chảy đáng yêu biết bao.
Bạn tham khảo nha
Chọn đáp án: B